Tête de méduse
Nấm Đầu sứa
Armillaria mellea (Vahl) P. Kumm.
Physalacriaceae
Đại cương :
▪ Danh pháp thông dụng :
Nấm Agaric ( nấm có chân và mũ ) màu mật ong miel, armilaire, bolet d’aulivié, buon, bolet d’amourié, bolet de saure, cassenada, grande souchette, perpignan, piboulado, pivoulade, sacizenado, sausenado, soquarelle, souquarelle, Chiodini, Nấm đầu sứa tête de meduse
◦ Armillaria mellea, hay Nấm armillaire màu mật ong miel là một nấm basidiomycète phổ biến, thông dụng và đa hình polymorphe, sống trong rừng lignicole và mọc thành bụi, được xếp vào trong họ Physalacriaceae.
◦ Phân tích hệ phát sinh chủng loại phylogénétique cho thấy rằng thật sự có 9 loài đến từ Á Châu và Đông và Tây Bắc Mỹ và Âu Châu.
Armillaire couleur miel thường sống thành cụm rất dầy đặc, bằng cách ký sinh parasitehoặc hoại sinh saprophyte ở trên bên dưới những thân cây yếu, những cành cây ở trên mặt đất, những gốc cây hoặc dường như hoàn toàn nằm trên mặt đất, thật vậy trên những gỗ hoặc những rễ cây chôn trong đất.
Rất phổ biến, người ta tìm thấy nấm nầy trên những cây gỗ khá cứng, từ tháng 9 đến tháng 11.
Trong mùa thu, nhiều loại nấm xuất hiện dưới chân của những cây, thường mọc thành búi khối lớn và nhầm lẫn với một số nấm nhất định pholiotes như pholiote có vảy là hoàn toàn có thể.
Môi trường sống và yếu tố gây bệnh pathogène.
Những bào tử thực vật ( nấm ) sporophores phát triển thành những búi lớn trên những rễ, những gốc cây ( những người đi rừng thường gọi là « souchier »), thậm chí trên những thân của cây gỗ cứng và rất hiếm của những lá kim conifères. Nấm cũng tấn công vào những cây nho và những cây ăn trái.
Đây là một loại nấm ký sinh ghê gớm gây ra một “ thối mục nát pourridié " của gỗ cây.
Nấm đầu sứa Armillaria mellea là trách nhiệm của sự hủy hoại pourriture những bộ phận của gỗ sống. Trong thời gian đầu tiên, nó làm suy giãm hệ thống rễ của Cây sau đó là collet( bộ phận của cây bao gồm phần tiếp giáp bên dưới thân ) và rễ và gốc của thân dẫn đến sự suy giãm nhiều hay ít nhanh chóng của đối tượng bị ảnh hưởng.
Ở giai đoạn nầy, một sự tổn thương xảy ra ở chân của cây và tấn công của lớp vỏ thứ cấp cambium được biết bởi sự bài tiết ra của chất nhựa có màu.
Ở cấp độ của những rễ bị tấn công mạnh, những phần tiếp giáp gốc thân và rễ collet, người ta quan sát thấy dưới lớp vỏ cây có một sự hiện diện của mốc trắng moisissures blanches và những sợi đen được gọi là những căn trạng rhizoïdes tạo thành một yếu tố quan trọng để chẩn đoán.
Nấm đầu sứa armillaire couleur de miel là ăn được, đáng quý khi nấm còn non trẻ, nhưng đôi khi khó tiêu indigeste.
Như nó tồn tại lâu dài tại vị trí môi trường trước khi bị thối rữa, người ta sẽ bảo đảm với những mẫu vật giới hạn còn non trẻ nhất.
Sự phân phối ngẫu nhiên
Nấm đầu sứa Armillaria mellea được phân bố trong tất cả vùng bắc bán cầu hémisphèrenord như nó đã được du nhập (điều nầy được xác định bởi lân cận với những chủng âu châu) vào trong Nam Phi Afrique du Sud bởi những người định cư Hà lan néerlandais đầu tiên của Compagnie des Jardins vào khoảng năm 1652, từ thuộc địa Cap.
Nó có thể được du nhập bởi những thực vật trong chậu, như cây nho hoặc những cây chanh .
Nấm đầu sữa Armillaria mellea cũng được trồng trong Úc Australie.
Thu hoạch nấm armillaire
Nấm đầu sứa Armillaria mellea Armillaire tìm thấy trong những rừng cây và những khu rừng, trong những vườn cây, trong những vườn ươm pépinières hoặc những cưa xẻ ( chủ yếu gỗ cây bách épicéa) được lưu trữ bên ngoài trời quá lâu ngày trong điều kiện ẩm ướt.
Nó có thể phát triển bất cứ loại cây nào, trên những chất thải thực vật hoặc dưới đất trên những cành cây v…v….
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
Mũ nấm Chapeau :
Thường từ 5 đến 10/15 cm, hiếm khi có thể lên đến 25 cm đường kinh, hình cầu và chắc bởi một màng trong một nấm còn non, trở nên lồi ra, sau đó tỏa lan rộng ra và cuối cùng suy giãm theo tuổi, khá nạt thịt, nhưng khá mỏng, cuối giai đoạn nầy, thường với một núm vú mamelon ở trung tâm, đầu tiên mép viền cong lên, mỏng nhiều hay ít có những vết bởi độ trong suốt đầu tiên sau đó có màu của mật ong couleur de miel, từ màu vàng đế màu nâu nhạt.
Ở đỉnh có những vảy có nhiều xơ écailleux-fibrilleux gần như đồng đều với nhau khi nấm còn non, sau đó những vảy biến mất hoặc trở nên phân tán.
Lớp biểu bì bên trên mũ nấm có thể tách rời ra, có màu “ mật ong miel ” đi từ màu vàng đến màu nâu, đôi khi cũng có màu trắng nhạt, màu đỏ... ; bên cạnh đó có những vảy mỏng màu nâu nhạt và dụng lên ở rãi rác trên mũ nấm, đặc biệt ở trung tâm, và hiếm hơn ở bìa nấm.
Bìa nấm mỏng và rộng, dợn sóng ở những đối tượng nấm già.
Phiến nấm lamelles :
Phiến nấm ít nhiều chặc chẽ vừa phải, không rộng, mỏng, không đều nhau, dính liền với nhau ở chân adnées, đôi khi kéo dài trong một mạng lưới cho đến vòng nấm anneau, phân rã décurrentes, màu trắng hoặc vết bẩn màu đỏ theo tuổi.
Chân nấm Pied :
Chân nấm từ 9 đến 15 cm và từ 1,5 đến 2,5 đường kính (20 cm và 6 cm cho những đối tượng rất lớn ) hình trụ, đặc đầy sau đó rỗng, rất có xơ và khá dai;
Vòng nấm anneau,
Vòng nấm được tìm thấy bên trên cùng, dồi dào, được viền bởi một đường cong màu nâu, đường rạch bên trên, với những vảy màu nâu hoặc màu vàng bên dưới, thường có đường viền màu vàng.
Sự hiện diện của vòng nấm anneau màu trắng nằm trên cao, màu vàng trong những loại variétélutea ; vòng nấm nầy anneau không dai dẳng không biến mất, dầy, hình đường rạch bên trên chân nấm nơi tiếp giáp với mũ nấm, đồng màu hoặc đậm hơn với mũ nấm, có lốm đốm màu trắng, tách ra thành từng miếng mõng bên dưới chân nấm trở nên đen ở gốc.
Nạt thịt Chair :
Nạt thịt của nấm màu trắng, hơi dầy trong mũ nấm, chắc, chân nấm phát triển trở nên xơ và dai như da, có dạng sần sùi, mùi mạnh của nấm có thể gây buồn nôn, hương vị thường đắng sau một thời gian lâu nhai trong miệng ( dĩ nhiên là không nuốt ).
Bào tử Spores :
Bào tử trắng không amyloïde, hình ellip, có kích thước (7-11,2 x 5,5-7 µm). Những tế bào ngoại biên có dạng một cái chai hoặc một cái chài.
Hương vị có chút đắng và tỏa ra một mùi xà phòng.
Đây là một loài cực kỳ đa dạng polymorphe, về kích thước lẫn màu sắc. Nó có một loài gần với nó là Armillaria tabescens, không có vòng anneau.
Sợi nấm khuẩn ty mycélium.
Sợi khuẩn ty có phát quang sinh học bioluminescent.
Những thân quả fructifications xuất hiện vào mùa thu dưới dạng một thân đậu quả ( thân nấm carpophores thành búi touffes. Những đãm bào tử basidiospores được phóng thích từ những phiến nấm và được phát tán bởi gió, nảy mầm trong đất để phát triển ra những khuẩn ty mycéliumcó thể có 2 dạng khác nhau :
- Một khuẩn ty mycélium hình phiến giữa những vỏ cây và gỗ xâm nhập vào trong những hệ thống rễ và áo chung quanh những cây.
- Những sợi khuẩn ty nằm dưới đất (dạng căn hành rhizomorphes) tạo thành những cơ quan được phổ biến phân bố và lây nhiễm contamination.
Trong mù không thuận lợi, những khuẩn ty dạng căn hành nầy rhizomorphes tạo thành những cơ quan bảo tồn của sự ký sinh parasite.
Sự lây lan và lây nhiễm infection được hiện bởi những khuẩn ty dạng căn hành nằm dưới đất rhizomorphes souterrains, do sự tiếp xúc của rễ nhiễm bệnh với những rễ lành mạnh.
Bộ phận sử dụng :
Toàn nấm còn non.
Thành phần hóa học và dược chất :
▪ 10 hợp chất đã được phân lập từ cấy trồng nấm Nấm đầu sứa Armillaria mellea bởi sắc ký chromatographie trên cột gel de silice và Sephadex LH-20.
Cấu trúc của chúng đã được xác định bởi sự phân tích dữ liệu quang phổ spectroscopiquesvà đã so sánh dữ liệu quang phổ spectroscopiquesvới dữ liệu được báo cáo trong tài liệu là :
- acide 2-hydroxy-4-méthoxy-6-méthylbenzoïque (1),
- acide orsellinique (2),
- melléolide (3),
- ergostérol (4),
- génistéine (5),
- daidzéine (6),
- daucostérol (7),
- génistine (8),
- uracile (9),
- và D-mannitol (10).
Những hợp chất 1 đến 10 đã được phân lập lần đầu tiên của sự cấy nuôi Nấm đầu sứa Armillaria mellea .
Trong số đó, thành phần 1, 4, 6 và 10 đã thu được từ những khuẩn ty mycélium hoặc những dạng căn hành rhizomorphes của Nấm đầu sứa Armillaria mellea .
Cấu trúc của hợp chất 3 đã được xác định bởi sự phân tích chi tiết của những dữ liệu của RMN 1D và 2D trong dung môi của DMSO cho lần đầu tiên.
▪ Những polysaccharides polysaccharide trong những dạng căn hành rhizomorphe của Nấm đầu sứa Armillaria mellea, dao động
Nấm đầu sứa Armillaria mellea chứa một số lượng cao của đường đa từ 4,70% trong giai đoạn ổn định đến 9,24% trong giai đoạn tăng trưởng theo đồ thị logarit logarithmique của tổng số trọng lượng khô (Cheng và al., 2006a).
Đường đa polysaccharide thô của khuẩn ty mycéliumnuôi trồng thậm chí còn hơn đến 10% (p / p) (Zhang và al. 2001).
Người ta ước tính rằng đường đa polysaccharide của Nấm đầu sứa Armillaria mellea có những hoạt động :
- chống oxy hóa anti-oxydation(Yang và al., 2007),
- tiềm năng miễn nhiễm immuno-potentiation(Sun và al., 2009),
- chống chóng mặt anti-vertige(Yu và al., 2006a),
- và hoạt động chóng lão hóa anti-âge. activités (Zhang và al., 2001).
Để mà phân tích những polysaccharides với những giai đoạn khác nhau của sự phát triển, những polysaccharides của Nấm đầu sứa Armillaria mellea trong những thân dạng căn hành corps rhizomorphes, thân quả fructifères, khuẩn ty mycélium và môi trường lên men của nó đã được ly trích, phân lập và được làm tinh khiết (Chen và al., 2001).
Nó đã được phát hiện rằng trọng lượng phân tử poids moléculaire của những polysaccharides là từ 10 đến 70 KD bởi sự lọc trên thạch gel.
Những polysaccharides của những khuẩn ty mycélium và dung dịch của sự lên men liqueur de fermentation của nó chỉ bao gồm đường glucose, nhưng đường glucose và xylose, có cả trong dạng căn hành rhizomorphe và trong thân quả fructifiant.
▪ Một polysaccharide khác (khoảng 665 KD) từ rượu mùi lên men liqueur de fermentation của Nấm đầu sứa Armillaria mellea sẽ là :
- D-glucose, của D-fucose, D-arabinose, D-mannose, của D-rhamnose và của D-galactose trong một tỹ lệ phân tử molairecủa 17,05: 0,33: 0,36: 1: 0,42: 13,67 (Kong và al., 2003).
Một đường đa polysaccharide (MW 138 KD) trong dạng căn hành rhizomorphe có được bao gồm :
- D-glucose, D-galactose, D-mannose, D-xylose và acide uronique (Shen và Hong, 1998).
Hơn nữa, hai polysaccharides đã được phân lập từ những khuẩn ty mycélium của Nấm đầu sứa Armillaria mellea (Zhang và al., 1995).
◦ Một là một đường đa polysaccharide trung tính hoà tan trong nước, bao gồm :
- đường mannose, đường glucose và galactose trong một tĩ lệ phân tử molaire 1,7: 5: 1.
◦ Loại khác là một đường đa polysaccharide acide không hòa tan trong nước với một sự kết hợp của :
- đường galactose, xylose, arabinose, fucose và rhamnose trong một tỹ lệ phân tử molaire 2,8: 2,7: 1: 1,7: 2.
▪ Bouveng và al. (1967) đã phân lập được 2 polysaccharides khác nhau hoà tan trong nước .
- Loại thứ nhất đã được chứng minh là một xylomannane có một sườn công thức squelette của kết nối 13 của dư lượng mannopyranose,
- và polysaccharide thứ hai chứa D-galactose, D-mannose, L-fucose và 3-O-méthyl-D-galactose, trong tỹ lệ phân tử moléculaire 6: 1: 2: 2.
▪ Esters aryliques sesquiterpéniques
Những esters aryliques sesquiterpéniques là những thành phần chánh của Nấm đầu sứa Armillaria mellea. Vào năm 1982, một loại kháng sinh antibiotiquemới, melléolide, đã được phân lập ở Nấm đầu sứa Armillaria mellea trong nuôi cấy. Nó là một ester arylique sesqui-terpénique đầu tiên được phân lập từ Nấm đầu sứa Armillaria mellea (Midland và al., 1982).
Kể từ đó, hơn 37 esters aryliques sesquiterpéniques đã được phân lập ở Nấm đầu sứa Armillaria mellea.
Như chất armillarine và armillaridine đã thu được từ Nấm đầu sứa Armillaria mellea vào năm 1984.
▪ Hợp chất indolés
Những nghiên cứu được thực hiện trên hàm lượng hợp chất indoliés của Nấm đầu sứa Armillaria mellea chỉ ra rằng những thân quả fructificationscủa loài chứa :
- L-tryptophane (4,47 mg / 100 g ps) của tryptamine (2,73 mg / 100 g ps),
- và sérotonine (2,21 mg / 100 g ps). (Muszyńska và al., 2001) (Zavastin và al.).
Hợp chất nầy thường có trong những trích xuất của đậu quả fructifications hoặc trong khuẩn ty mycélium của đảm khuẩn basidiomycètes cao hơn (Muszyńska và al., 2011) (Muszyńska và al., 2009).
Chất tryptamine hành động như một chất chủ vận agoniste không tuyển chọn của những thụ thể của chất sérotonine và một tác nhân phóng thích của chất sérotonine-noradrénaline-dopamine (SNDRA), bởi vì sự tương tác của nó với những chất ức chế của MAO có thể dẫn đến tử vong bởi sự ngộ độc empoisonnement(Isbister và al., 2004).
Một số nhất định chất chuyển hóa métabolites của tryptophanecó thể làm tổn thương hệ thống thần kinh système nerveux bằng cách đóng một vai trò trong sự phát triển của những bệnh thoái hóa dégénératives. Do đó, những liều củ a thuốc nầy phải được theo dỏi khi được quản lý dùng (Stone và al., 2003).
◦ Trong não bộ cerveau, chất sérotonine đóng một vai trò quan trọng trong sự điều hòa của nhiều chức năng quan trọng, bao gồm :
- giấc ngủ sommeil,
- khẩu vị bữa ăn appétit,
- nhiệt độ cơ thể température corporelle,
- sự tái sinh tế bào régénération cellulaire,
- và trọng lượng cơ thể poids corporel.
Những mức độ bất thường của chất sérotoninecó thể là do của những vấn đề như là :
- xu hướng tự vận tendance suicidaire,
- rối loạn của sự ám ảnh cưởng chế obsessionnel compulsif,
- nghiện rượu alcoolisme,
- và lo âu anxiété;
do đó, sự trầm cảm dépression được chữa trị với những thuốc ảnh hưởng trên sự tái hấp thu của chất sérotonine trong những vết nứt của khớp thần kinh fentes synaptiques(Muszynska và al., 2011) (Chattopadhyay và al., 1996).
▪ Phân hóa tố Enzymes .
Những khuẩn ty mycéliums của những nấm chứa một số lượng lớn phân hóa tố enzymesdo phương pháp của sự dinh dưởng thấm thấu nutrition osmotique của chúng.
Phần lớn của những nấm đảm khuẩn basidiomycètes cao hơn tổng hợp của những phân hóa tố hémicellulases, của những cellulases và ligninases tham gia vào sự phân hủy của những thành vách thực vật của những mô tế bào thực vật (Muszynska và al., 2011).
◦ Một phân hóa tố tiêu sợi huyết enzyme fibrinolytique, được gọi là metal-loprotéase Armillaria mellea, đã được làm tinh khiết từ những khuẩn ty mycéliumcủa Nấm đầu sứa Armillaria mellea trong cấy nuôi bằng phương pháp sắc ký chromatographie trên sự trao đổi ions và thanh lọc trên gel filtration sur gel(Lee và al., 2005).
◦ Phân hóa tố thủy phân chất đạm protéase hydrolysenầy có hiệu quả trên gây ra sợi huyết fibrinogènetrong quá trình đông máu, tốt nhất tiêu hóa chuổi A trên những chuổi B và chuổi r, và hoạt động của phân hóa tố enzymatiquebị ảnh hưởng bởi những ions kim loại.
◦ Ngoài ra một phân hóa tố protéinase đặc biệt lysine, được phân lập từ thân quả fructification của nấm basidiomycète Nấm đầu sứa Armillaria mellea, cũng thể hiện một hoạt động tiêu huyết fibrinolytiquemạnh (Healy và al., 1999).
Nó đã được chứng minh rằng thân quả fructificationcủa Nấm đầu sứa Armillaria mellea là có khả năng sản xuất một phân hóa tố protéinase đặc hiệu lysine, thành viên của một lớp mới của phân hóa tố métalloendopeptidases (Gao và al., 2009).
◦ Một trích xuất phân hóa tố enzymatique thô của Nấm đầu sứa Armillaria mellea đã cho thấy một hoạt động của polyphénol oxydase trên 4-méthylcatéchol (Colak và al., 2007).
Phân hóa tố laccase, một polyphénol oxydase với đồng Cu, cũng đã tìm thấy ở Nấm đầu sứa Armillaria mellea (Xiao và al., 2002; Wu và al., 2001).
▪ Nguyên tố khoáng minéraux :
Hàm lượng cao trong thành phần những nguyên tố khoáng minéraux của những nấm thượng đẳng là được biết rõ.
Mặc dù chúng tâo thành một nguồn giàu của nguyên tố khoáng trong nguyên tố khoáng đầy đủ, chúng cũng tích tụ của những thành phần kim loại nặng métaux lourds và những nguyên tố phóng xạ éléments radioactifs, đặc biệt khi nó mọc trong những vùng ô nhiễm, gần những đường cao tốc autoroutes(Svoboda và al., 2006) (Kemp, 2002).
▪ Mức độ của thành phần nguyên tố khoáng minérauxcó thể đồng hóa tốt phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng chủ yếu dựa vào :
- tuổi của nấm, của chất nền và đường kính của mũ nấm,
bởi vì những nồng độ cao nhất của tất cả những hợp chất nầy và những nguyên tố nầy có thể được tìm thấy trong mũ của một nấm (Przybyłowicz và Donoghue , 1988) (Muszynska và al., 2011).
Những nghiên cứu được thực hiện trên những thân quả fructifications của Nấm đầu sứa Armillaria mellea thu hoạch ở Ba Lan Pologne đã cho thấy sự hiện diện của những nguyên tố, như là :
- Na, K, Mg, Ca, Fe, Mn, Zn, Pb, Cu, Cd, Hg, Ag et Se (Falandysz và al. , 2002) (Falandysz và al., 1992).
▪ Vitamines .
▪ Hàm lượng vitamines cực kỳ quí giá bởi vì những vitamines đóng một vai trò quan trọng trong những cơ thể con người và động vật và những nấm là một trong những nguồn tốt nhất của những vitamines, đặc biệt vitamine B (Furlani và Godoy, 2008) (Mattila và al., 2001). ). Những nghiên cứu trên Nấm đầu sứa Armillaria mellea cho thấy rằng, so sánh với những nấm đảm khuẩn Basidiomycètes khác, nó chứa một số lượng lớn của niacinevà vitamines B1, hàm lượng vitamine B2 là thấp hơn so với những nấm khác (Majdańska, 2007) (Podlewska, 2006).
▪ Chất đạm Protéines.
Chất đạm protéine là một thành phần khác của Nấm đầu sứa Armillaria mellea được hiện diện trong một nồng độ cao trong những thân quả fructifications của chúng (23,0 g cho 100 g của nguyên liệu khô ) (Stasiak, 2008).
Những thành phần chất đạm protéiques chứa hơn phân nửa của tổng số azote và hàm lượng của chúng thay đổi từ 19,0 đến 39,0 g cho 100 g của nguyên liệu khô ở những nấm thượng đẳng (Źródłowski, 1995) (Florczak và Lasota, 1995).
◦ Những globulines một chất đạm đại diện khoảng 25% của tổng số phần đoạn azote, những prolamines và những glutéines, tương ứng khoảng 10% và 5% của tổng số azote (Karkocha, 1964).
▪ Esters aryles sesquiterpéniques
Những esters aryles sesquiterpéniques (sesquiterpénoïdes) được mô tả trong tài liệu như những thành phần chủ yếu của những thân quả fructificationsvà khuẩn ty của Nấm đầu sứa Armillaria mellea.
Những nghiên cứu được thực hiện trên nhóm nầy đã cho thấy rằng hầu hết những hợp chất nầy có một hoạt động kháng sinh antibiotiquevà chống nấm antifongique (Gao và al., 2009).
Sức mạnh của hoạt động kháng siêu vi khuẩn antimicrobiennephụ thuộc vào số lượng phân tử atomes của carbone trong những hạt particule và loại thay thế (Donnelly và al., 1985).
Ester arylique de sesquiterpène đầu tiên được phân lập từ Nấm đầu sứa Armillaria mellea cho thấy một hoạt động kháng sinh antibiotique là méléolide (Midland và al., 1982).
◦ Nhiều chất kháng sinh antibiotiques, chủ yếu của những esters aryliques sesquiterpéniques, đã được phân lập tgừ Nấm đầu sứa Armillaria mellea và chỉ ra một hành động mạnh chống lại những vi khuẩn bactéries Gram dương + (Staphylococcus, Streptococcus, Enterococcus, etc.), cũng như những nấm men levures và những nấm khác .
Sau đó, người ta thu được chất armillarine và armillaridine và kể từ đó, hơn 50 sesquiterpénoïdes khác nhau đã được phân lập, bao gồm armillaricine, armillaribine, armillarigine và judeol (Yang và al., 1984) (Yang và al., 1989) (Yang và al., 1990).
▪ Ergostérol (provitamine D) là loại stérols rất phổ biến nhất trong những đảm khuẩn thượng đẳng basidiomycètes supérieurs cũng được gặp ở Nấm đầu sứa Armillaria mellea với peroxyde d'ergostérol thể hiện một hoạt động chống ung bướu khối u antitumorale(Florczak và al., 2004) (Muszynska và al., 2011).
▪ Những thành phần khác.
Chất adénosine thay thế bởi N 6 với hoạt động bảo vệ não bộ cérébrale đã được phân lập ở Nấm đầu sứa Armillaria mellea (Watanabe và al., 1990).
Một chất mới sphingolipide armillaramide, peroxyde d'ergostérol và ergosta-5,7-dian-3-ol ont đã được phân lập bởi Gao et al., (2001).
◦ Ba (3) triterpènes (friedelin, 3-hydro-xyfriedel-2-one và 3-hydroxyfriedel-3-en-2-one) và 3 stéroïdes (ergostérol, peroxyde de ergostérol và 6,9-époxy-ergosta-7,22-dien). 3-ol) đã thu được từ Nấm đầu sứa Armillaria mellea (Guo và al., 2007).
◦ Hợp chất 5,6-Epidioxyergostan-3-ol cũng đã thu được từ sự thân quả của nấm fructification du champignon (Shi và al., 1998).
Đặc tính trị liệu :
▪ Lợi ích và đặc tính :
Sự phát hiện đầu tiên với đối tượng nấm nầy là có một số nhất định hoạt tính nói chung với một thực vật nỗi tiếng được sử dụng trong y học truyền thống tàu:
Cây Gastrodia elata, một cây hoa lan orchidée bao gồm một củ được tiêu thụ để chữa trị những bệnh đau nửa đầu migraines hoặc những chứng co giật convulsions.
▪ Một hợp chất hoạt động trong Nấm đầu sứa armillaire de miel đã được phát hiện vào năm 1990 bởi những nhà nghiên cứu nhật bản japonais (Obuchi, Watanabe, Kondoh,…) :
- acide armillarique, được xem như :
một loại thuốc kháng sinh antibiotique mới với khả năng ức chế hoạt động của những vi khuẩn bactéries như : staphylocoque hoặc streptocoque.
▪ Nhiều những polysaccharides của nấm cho phép tranh đấu chống lại :
- những co giật convulsions của động kinh épilepsie,
- những cảm giác chóng mặt sensations de vertiges thường gây ra bởi sự gia tăng huyết áp hypertension.
Đây là một đội nghiên cứu của tàu đã khám phá đặc tính nầy vào năm 2006.
▪ Duy nhất trên những chuột cho thời điểm nầy Kong và Wang đã chứng minh vào năm 2007:
- một sự gia tăng của những khả năng phòng vệ miễn nhiễm défenses immunitaires trong quá trình tiêu dùng Nấm đầu sứa armillaire de miel.
▪ Cuối cùng, đây là một hành động trên thành phần của máu composition du sang mà những nhà nghiên cứu quan tâm.
Đầu năm 1983 Bác sĩ Zhang đã thực hiện được :
- làm giãm mức độ chất béo lipides trong máu ở những bệnh nhân của ông nhờ những liều của Nấm đầu sứa Armillaria mellea .
▪ Trong năm 2002 nồng độ đường glucose mà nấm đã làm giãm trong máu của chuột mắc bệnh tiểu đường diabétique (ở Tàu tác giả Yu và Shen).
▪ Những thành phần khác của những polysaccharides hiện diện trong những thân quả fructifications của Nấm đầu sứa Armillaria mellea, như là :
- glycogène,
- cellulose,
- mannane,
- và chất chitine,
đã được nghiên cứu và những kết quả của sự nghiên cứu cho thấy rằng hợp chất nầy làm giãm nguy cơ :
- bệnh tim mạch maladies cardiovasculaires
bằng cách giãm những nồng độ của cholestérol LDL và đường mỡ triglycérides (Muszynska và al., 2011). ).
Nó được thành lập rằng những chất chitinesvà chất glucanes có khả năng :
- hạ huyết áp động mạch pression artérielle,
- ảnh hưởng đến hệ thống miễn nhiễm système immunitaire,
- và thực hiện những hành động hạ đường máu hypoglycémiantes,
- kháng khuẩn antibactériennes,
- kháng siêu vi khuẩn antivirales,
- và chống viêm anti-inflammatoires(Muszynska và al., 2011) (Pochanavanich et Suntornsuk, 2002).
▪ Khuẩn ty mycelium Nấm đầu sứa Armillaria mellea chứa những mức độ cao của polysaccharides có một hoạt động :
- chống lão hóa anti-vieillissement,
- điều hòa tính miễn nhiễm immunomodulatrice,
- và chống chóng mặt anti-vertige.
Kinh nghiệm dân gian :
▪ Trong tàuNấm đầu sứa Armillaria mellea được quy định để chữa trị nhiều loại của sự rối loạn thần kinh troubles neurologiques như :
- chứng động kinh épilepsie,
- suy nhược thần kinh neurasthénie,
- bệnh trầm cảm dépression,
- hiếu động hyperactivité,
- bệnh mất ngủ insomnie,
- những tình trạng bất ổn âm đạo malaises vagaux,
cũng như những rối loạn, như :
- tăng huyết áp động mạch hypertension artérielle,
- hoặc những đau đầu maux de tête.
Những trích xuất lên men có những đặc tính :
- chống co giật anti-convulsivantes,
- cải thiện thị giác améliorent la vue,
và ngăn ngừa những bệnh :
- hô hấp respiratoires,
- và tiêu hóa digestives.
Armillaire couleur de miel hay Nấm đầu sứa Armillaria mellea làm gia tăng :
- lưu lượng flux sanguin lên não cerveauvà tim cœur
mà không làm gia tăng huyết áp động mạch pression artérielle.
Nó làm :
- giãm nhịp đập của tim rythme cardiaque,
- và gia tăng sức đề kháng mạch máu vasculaire.
Đây là một nấm bảo vệ tuyệt vời của những mạch máu vaisseaux sanguins.
▪ Mặc dù trách nhiệm cho tử vong của nhiều cây và những cây bụi trong vườn.
Nấm đầu sứa Armillaria mellea là thiết yếu của sự tăng trưởng của những Cây khác, bao gồm cả những thảo dược quan trọng tàu Gastrodia elata (Tian Ma), được sử dụng để chữa trị trong những bệnh, như là :
- chóng mặt vertiges,
- đau đầu maux de tête,
- tai biến mạch máu não accidents vasculaires cérébraux,
- và co giật convulsions,
và do đó những đặc tính y học của Nấm đầu sứa Armillaria mellea cũng được phản ảnh.
Thật vậy, Nấm đầu sứa Armillaria mellea được xem như mạnh hơn cho cả hai với một liều lượng cũng có hiệu quả bằng phân nửa so với dược thảo Tian Ma.
Nghiên cứu :
● Hiệu quả trên hệ thống thần kinh système nerveux.
Nấm đầu sứa Armillaria mellea được chứng minh có những đặc tính chống co giật anticonvulsives.
Trích xuất của sự lên men fermentation của Nấm đầu sứa Armillaria mellea cho thấy những đặc tính chống co giật anticonvulsives, gia tăng ngưỡng của sự co giật convulsions trong những sự co giật convulsions gây ra bởi PTZ ở chuột, trong khi một dẫn xuất adénosine của khuẩn ty mycélium bị hũy bỏ những phản ứng thần kinh nerveuses neurogéniques gây ra bởi sự kích thích do điện trường champ électrique với một sự trầm cảm trước và sau khớp nối thần kinh synapse, cũng như được tìm thấy 1000 lần mạnh hơn so với chất adénosine trong hoạt động bảo vệ não bộ cérébrale của nó.
◦ Những viên nang của khuẩn ty mycelium Nấm đầu sứa Armillaria mellea được quy định trong Tàu để chữa trị những bệnh thần kinh neurologiqueskhác nhau, bao gồm hội chứng Ménière syndrome de Ménière, những chóng mặt vertiges, những đau đầu maux de tête, mất ngủ insomnie, chứng động kinh épilepsie, suy nhược thần kinh neurasthénie và tăng huyết áp hypertension.
◦ Những polysaccharides của Nấm đầu sứa Armillaria mellea cũng có một hiệu quả chữa trị trên chứng chóng mặt vertige gây ra bởi sự quay của máy rotation des machines (Yu et al., 2006a). N6- (5-hydroxy-2-pyridyl) -méthyl-adénosine (AMG-1) của khuẩn ty mycélium Nấm đầu sứa Armillaria mellea là 1000 lần mạnh hơn chất adénosine trong hoạt động bảo vệ não bộ cérébrale(Watanabe và al., 1990).
Nó đã được chứng minh rằng AMG-1 hành động trên tiền khớp nối thần kinh pré-synapse(có thể là thụ thể A1) để làm giãm sự phóng thích của những chất dẫn truyền thần kinh neuro-transmetteurs
Hợp chất nầy đã loại bỏ những phản ứng thần kinh neurologiques gây ra bởi sự kích thích bởi do bởi điện trường champ électrique, trong khi khả năng phản ứng của kênh phòng thủ của với acétylcholine xuất phát từ bên ngoài đã giãm, cho thấy một sự trầm cảm trước và sau khớp nối thần kinh synapse (Xiong và Huang, 1998).
Ngoài ra, nó đã được chứng minh ràng trích xuất của Nấm đầu sứa Armillaria mellea- polysaccharide là có lợi ích cho chứng bệnh chóng mặt vertige gây ra bởi sự xoay vòng của những máy móc.
● Hiệu quả trên hệ thống miễn nhiễm système immunitaire.
Lin và al. (1988) đã phát hiện rằng Nấm đầu sứa Armillaria mellea polysaccride (AP) có một hoạt động kích thích miễn nhiễm immunostimulante.
AP ( Armillaria Polysaccharide ) đã tăng cường tính miễn nhiễm immunité của những dịch cơ thể liquides organiques, gia tăng sự sản xuất huyết diếu tố huyết thanh hémolysine sérique và tế bào hình thành của những mảng bám của tỳ tạng plaques de rate ở những chuột bình thường, cũng như một sự gia tăng đáng kể của sự sản xuất huyết diếu tố huyết thanh hémolysine sérique ở những chuột bị ức chế miễn nhiễm immunodéprimées gây ra bởi cyclophosphamide.
AP cũng tăng cường rõ rệt sự tăng sinh proliférationcủa những tế bào bạch huyết lymphocytesgây ra bởi Con A của những tế bào tỳ tạng ratecủa chuột trong ống nghiệm in vitro, nhưng nó không có hiệu quả làm giãm tính quá mẫn hypersensibilité của da với 2,4-dinitrochlorobenzène ở những chuột bình thường.
Hơn nữa, AP làm gia tăng cho cả tốc độ thanh lọc của những hạt than charbon và hoạt động thực bào phagocytaire của những đại thực bào macrophages của những khoang bụng cavité abdominale ở những chuột bình thường.
Những kết quả tương tự đã được báo cáo bởi Dai và al. (2000) và Yu và al. (2001).
Exopolysaccharide Nấm đầu sứa Armillaria mellea cũng cải thiện chức năng miễn nhiễm immunologiquecủa chuột (Kong và al., 2007).
Wang và al. (2007) đã tìm thấy rằng Polysaccharide Nấm đầu sứa Armillaria mellea cải thiện khả năng miễn nhiễm immunitaire của những chuột bằng cách điều chỉnh tế bào miễn nhiễm immunocytevà cytokine.
Hơn nữa, Li và al. (2005) đã báo cáo rằng polysaccharide có những hiệu quả bảo vệ chống lại những tổn thương gây ra bởi cyclophosphamide trên những tế bào tủy xương moelle osseuse của chuột.
● Hiệu quả trên hệ thống tuần hoàn système de circulation.
Wang và al. (2007) đã đánh giá hiệu quả những thuốc viên gồm hợp chất Nấm đầu sứa Armillaria mellea trên tình trạng suy đốt sống vertébrobasilaire(IVB) thường là cơ chế huyết động hémodynamiqueliên quan đến tổn thương xơ vữa động mạch đốt sống.
Những thuốc viên có thể làm giãm độ nhờn viscositétoàn phần của máu, chống ngưng tập tiểu cầu agrégation anti-plaquettaire và cải thiện nguồn cung cấp máu não sang du cerveau.
Những polysaccharides của dạng căn hành rhizomorphe của Nấm đầu sứa Armillaria mellea AMP-1 và AMP-2 có thể làm giãm rõ rệt đường máu glycémie ở những chuột bệnh tiểu đường diabétiques gây ra bởi alloxane, trong khi AMP-1 có thể cải thiện rõ rệt khả năng dung nạp với đường glucose ở chuột bình thường (Yu và Shen, 2002).
Ngoài ra, nó đã được ghi nhận rằng những thuốc viên Nấm đầu sứa Armillaria mellea có thể làm giãm một cách đáng kể nồng độ chất béo lipides trong máu sang ở những bệnh nhân lâm sàng cliniques(Zhang và al., 1983).
● Hoạt động kháng vi khuẩn antimicrobienne.
Nhiều tài liệu cho thấy rằng Nấm đầu sứa Armillaria mellea có một hoạt động kháng vi khuẩn antimicrobienne(Sun, 2004; Yamac và Bilgili, 2006).
Những esters aryliques sesquiterpéniques có thể là những ứng viên của một hoạt động kháng vi khuẩn antimicrobienne.
Donnelly và al. (1985) đã phân lập 2 esters aryliques sesquiterpéniques mới, 4-O-méthylméléolide và judéol, cả hai có môt hoạt động kháng khuẩn antibactérienne phạm vi rộng đối với những vi khuẩn Gram + dương.
Acide armillarique cũng thể hiện một hoạt động chất ức chế rõ rệt chống lại những vi khuẩn bactéries Gram + dương và những nấm men levures (Obuchi và al., 1990).
Momose và al. (2000) đã phân lập 3 hợp chất : những melléolides K, L và M.
Melleolides K, thể hiện một hoạt động kháng vi khuẩn antimicrobiennechống lại những vi khuẩn bactéries Gram + dương grampositives, những nấm men levures và những nấm champignons.
Hơn nữa, 3 loài của sesquiterpénoïdes kháng khuẩn antibactériens, những melléolides B-D, đã thu được ở Nấm đầu sứa Armillaria mellea (Arnone và al., 1986).
● Hoạt động sinh học bioactivités khác.
Yang và al. (2007) đã báo cáo rằng những polysaccharides của thân quả fructification của Nấm đầu sứa Armillaria mellea có một số hiệu quả nhất định nhặt sạch những gốc tự do piégeage le radical libre của anion superoxyde.
Zhang và al. (2002) đã phát hiện rằng một polysaccharide Armillaria mellea có một chức năng chống đột biến antimutagène ở loài ruồi giấm Drosophilae melanogaster.
◦ Hoạt động chống lão hóa anti-vieillissementcũng đã được tìm thấy trong những trích xuất của Nấm đầu sứa Armillaria mellea (Yu và al., 2006b).
● Cơ sở dược lý pharmacologiques cho sự sử dụng polysaccharides Armillaria mellea trong bệnh Alzheimer : chống lập trình tự hủy anti-apoptose và chống oxy hóa antioxydation
Shengshu An, 1 Wenqian Lu, 1 Yongfeng Zhang, 1 Qingxia Yuan, 1 et Di Wang1,2
Nấm đầu sứa Armillaria mellea, một nấm ăn được, thể hiện những hoạt động dược lý pharmacologiques khác nhau, bao gồm những đặc tính chống oxy hóa antioxydantes và chống lập trình tự hủy tế bào anti-apoptotiques.
Tất cả, những hiệu quả của Nấm đầu sứa Armillaria mellea trên bệnh Alzheimer (MA) chưa được báo cáo có hệ thống.
Nghiên cứu hiện tại nhằm vào mục đích khám phá những hiệu quả bảo vệ của những polysaccharides của khuẩn ty mycélium (AMPS) thu được ở Nấm đầu sứa Armillaria mellea, Trong đặc biệt của AMPSc thông qua một sự kết tủa với éthanol 70% trong một mô hình của lập trình tự hủy apoptose của những tế bào HT22 gây ra bởi acide L-glutamique (L-Glu) và bởi một mô hình AlCl3 cộng thêm D-galactose- (D-gal-) gây ra MA mô hình chuột.
AMPSc gia tăng đáng kể khả năng sống còn của tế bào viabilité cellulaire, ức chế lập trình tự hủy hạt nhân apoptose nucléaire, ức chế sự tích tụ của những loài phản ứng với dưởng khí oxygènenội tế bào oxygénées réactives intracellulaires, ngăn chận sự kích hoạt của caspase-3 và khôi phục tiềm năng màng tế bào ty thể membranaire mitochondrial (MMP).
Ở những chuột MA, AMPSc đã cải thiện những chuyển động ngang trong một thử nghiệm của hoạt động tự quản activité autonome, cải thiện thời gian chịu đựng endurance trong một thử nghiệm quay tròn Rotarod và giãm thời gian trễ thoát khí latence d'échappement trong một thử nghiệm của mê cung nước labyrinthe aquatique.
Ngoài ra, AMPSc làm giãm tỹ lệ lập trình tự hủy apoptose, những lắng đọng của bêta-amyloïde (Aβ), những tổn thương oxy hóa oxydatifs và những ngưng tập agrégationscủa p-Tau trong vùng đồi hải mã hippocampe( hippocampe vai trò mờ nhạt trong việc thu thập bộ nhớ ) của chuột MA.
Những chức năng của hệ thống cholinergique trung tâm ở những chuột MA đã được cải thiện sau khi quản lý dùng AMPSc kéo dài 4 tuần, như chỉ định sự gia tăng của những nồng độ acétylcholine (Ach) và choline acétyltransférase (ChAT) và sự giãm của những nồng độ acétylcholine estérase (AchE) trong huyết thanh sérum và vùng dưới đồi hypothalamus.
Những kết quả cung cấp của những bằng chứng thí nghiệm cho thấy Nấm đầu sứa Armillaria mellea như một ứng viên bảo vệ thấn kinh neuroprotecteur để chữa trị hoặc ngăn ngừa những bệnh thoái hóa thần kinh neurodégénératives.
● Armillaridin, một nấm thuốc đầu sứa Armillaria mellea (basidiomycètes thượng đẳng), ức chế sự khác biệt và sự kích hoạt của những đại thực bào macrophages người.
Liu TP1, Chen CC2, Shiao PY3, Shieh HR3, Chen YY4, Chen YJ5.
Chất armillaridine (AM) là một hợp chất ester aromatique ( thơm ) được phân lập từ nấm thuốc Nấm đầu sứa Armillaria mellea, có một tiềm năng chống ung thư anticancéreux.
Nghiên cứu nầy nhắm vào mục đích khảo sát từ chất AM trên những đại thực bào macrophagestrên sự khác biệt và sự kích hoạt, bản thể chính của tính miễn nhiễm immunité bẫm sinh.
Những đại thực bào macrophages là dẫn xuất của tế bào đơn nhân monocytes CD14 + đã được sắp xếp từ những tế bào đơn nhân cellules mononucléées của máu ngoại vi người.
Khả năng sống còn của tế bào đã được đánh giá bởi một thử nghiệm loại trừ vớí thuốc nhuộm màu xanh dương trypan bleu trypan.
Những tế bào được nhuộm với thuốc nhuộm colorantde Liu để quan sát hình thái học morphologie. Sự biểu hiện của những kháng nguyên antigènes bề mặt đã được khảo sát bởi phân tích dòng tế bào học cytométrie en flux.
Thực bào phagocytose và thế hệ của những loài phản ứng với oxygène (reactive oxygen species ROS), như phân tích chức năng , đã được đánh giá bằng cách đếm những nấm men levures bị nhấn chìm và phản ứng DCFH-DA.
Khả năng sống còn viabilité của những đại thực bào macrophages không bị giãm đáng kể bởi AM. AM với những nồng độ không độc hại non toxiques gia tăng rõ rệt không bào tế bào chất vacuoles cytoplasmiques.
Sự biểu hiện của bề mặt CD14, CD16, CD36 và HLA-DR đã được loại bỏ. Chức năng thực bào phagocytose, nhưng không sản xuất của ROS, của những đại thực bào macrophages đã được ức chế bởi AM.
Chất armillaridine có thể ức chế sự khác biệt và sự kích hoạt activation của những đại thực bào macrophages con người. Nó có thể có tiềm năng được phát triển như một công cụ điều chỉnh của phản ứng sinh học réponse biologique cho những bệnh viêm inflammatoires.
● Armillarikin, thành phần Armillaria mellea, gây ra lập trình tự hủy apoptose trong những tế bào ung thư bạch cầu cellules de leucémie người.
Yu Jen Chen, Wu Szu-Yuan, Chien Chih Chen, Yu Lin Tsao, Nai Chi Hsu, Yu Chi Chou, Huey Lan Huang
Nấm đầu sứa Armillaria mellea, một thực phẩm thuốc thường được sử dụng trong Châu Á Asie, là một thành phần quan trọng của y học truyền thống Tàu tên gọi «Tien-ma».
Chất Armillarikin là một hợp chất được phân lập từ Nấm đầu sứa Armillaria mellea với những chức năng y học sinh học biomédicales không được biết rõ.
Trong nghiên cứu nầy, chất armillarikin đã ức chế khả năng sống còn của những tế bào K562, U937 và HL-60 của bệnh bạch cấu ( ung thư máu ) leucémie người theo cách phụ thuộc vào nồng độ, dẫn đến cái chết tế bào chủ yếu là do lập trình tự hủy apoptose kèm theo một sự giãm tiềm năng truyền màng transmembranaire của ty thể mitochondrial.
Armillarikin gây ra một sự phân cắt clivage của caspase-8, caspase-9, caspase-3 và caspase-3. chất nền PARP.
Sự ức chế của sự tăng trưởng và lập trình tự hủy apoptosegây ra bởi chất Armillarikin đã được đảo ngược bởi chất ức chế caspase Z-VAD-fmk, chỉ ra một hiệu quả phụ thuộc vào caspase.
Hơn nữa, chất armillarikin đã gia tăng sự sản xuất ROS nội bào intracellulaires.
Sự ngăn chận sự sản xuất của ROS làm giãm lập trình tự hủy apoptose gây ra bởi chất armillarikin, gợi ý một sự hòa giải bởi ROS.
Tóm lại, chất armillarikin đã ức chế sự tăng trưởng và gây ra lập trường tự hủy apoptose bởi thông qua một cơ chế liên quan đến một sự rối loạn chức năng dysfonctionnementcủa những ty thể mitochondries, kích hoạt caspase và sự sản xuất của ROS trong những tế bào bạch cầu ( ung thư máu ) người leucémie humaine K562, U937 và HL-60.
Hiệu quả xấu và rủi ro :
Nấm nầy ít nghiên cứu, cho đến ngày nay, đã được thực hiện trên nấm nầy và những hiệu quả chữa điều trị của nó không được kiểm soát.
Mặt khác nó không được bán cho mục đích chữa bệnh và hiếm cho những phẩm chất nấu ăn của nó.
Chỉ một cách duy nhất là tự hái thu hoạch để có nấm nầy, với điều kiện phải chắc chắn về bản sắc định danh của nó cho thật đúng.
▪ Liều dùng và tác dụng phụ.
▪ Sự tiêu thụ nó dẫn đến sự hình thành những kháng thể anticorps, tương tự với hội chứng syndrôme gyromitrien ( hội chứng ngô độc với nấm Gyromitra esculenta, Gyromitra migas …. ), do đó sự tích tụ có thể gây ra những triệu chứng tương tự với một sự ngộ độc nghiêm trọng với nấm Amanita phalloïde empoisonnement phalloïdien.
Để tránh hiện tượng đáng sợ nầy mặc dù không an toàn, người ta tránh tiêu thụ một cách gần chặt chẻ với nhau.
▪ Những tai nạn thỉnh thoảng của rối loạn dạ dày troubles gastriques đã được báo cáo với nấm này.
do đó nên thận trọng khi sử dụng tiêu dùng lần đầu tiên. Đã có một vài trường hợp ngộ độc intoxications ngay cả sau khi nấu chín kéo dài.
▪ Những trường hợp dị ứng allergie đôi khi cũng được ghi nhận bao gồm cả sự tiếp xúc giữa da và những bào tử spores của nấm.
Liên quan đến liều lượng dưới dạng bổ sung thực phẩm complément alimentaire nó thường được khuyến cáo nên tiêu thụ một vài lúc ban đầu, sau đó gia tăng liều lượng từng chút để đạt được khoảng 1 g bột mỗi ngày hoặc 600 mg của trích xuất.
Nó phải được tiêu thụ trong nhiều tháng để cảm thấy những lợi ích mong muốn.
▪ Người ta khuyên nên liên hệ với một bác sĩ hoặc chuyên gia nấm trị liệu mycothérapeutecó thể tư vấn và theo dỏi trong thời gian dùng nấm thuốc.
Armillaire : độc tính toxicité gì ?
Trong tất cả những trường hợp, phải dùng với tất cả sự thận trọng đối với tất cả những loại nấm, đặc biệt với những loại nấm mà chúng ta không quen, không rõ và nghi ngờ.
▪ Không nên tin tuởng vào « người ta nói », nhưng thay vào đó với những đặc điểm thực vật caractéristiques botanique của nấm .
▪ Tránh tiêu thụ nấm với một số lượng lớn.
▪ Phải cẫn thận với những nấm không được tươi. Trong trường hợp nghi ngờ nên vứt bỏ đi.
▪ Nấm có thể là không độc hại toxique, nhưng nếu môi trường chung quanh bị ô nhiễm, do đó nó có thể trở nên độc hại nếu nó hấp thu những yếu tố bên ngoài vào trong nấm.
▪ Nấm armillaire là đề tài tranh cải, bởi vì nó đôi khi được cho là nấm ăn được, đôi khi như loài nấm độc hại toxique hoặc khó tiêu.
Một số người tiêu dùng không có vấn đề, không giống với người khác ăn vào có vấn đề.
▪ Nấm đầu sứa Armillaria mellea (Vahl) P. Kumm. (Fungi, Basidiomycota, Agaricomycetes, Agaricomycetidae, Agaricales, Physalacriaceae), thường được gọi là "Armillaire", là trách nhiệm của "thối rễ pourridié agaric".
▪ Những Pourridiés là những bệnh ảnh hưởng đến những bộ phận bên dưới đất của Cây nho, chẳng hạn như nhiều loại cây gỗ cứng ligneuses. Ba tác nhân của thối rữa rễ có thể tấn công vào cây nho.
Thực phẩm và biến chế :
▪ Sự tiêu thụ Nấm đầu sứ armillaire
Nấm phải được lúc còn non, và do đó nó trong chồi ( khi những phiắn nấm vẩm còn ẩn kín ).
Nó phải được xác định đúng và nấm tìm kiếm không chúc nghi ngờ có thể.
Nó phải được thu hoạch trong những nơi không bị ô nhiễm.
Nó nên ăn tốt nhất trong ngày thu hoạch.
Nó phải được nấu thật chín và phải được làm trắng. Nó có thể tiêu dùng bằng cách khác ( loại bỏ nước nấu trực tiếp sau khi làm ráo nước ).
▪ Đối với tính ăn được, nhiều ý kiến, theo những tác giả:
- Ăn được rất có thể được ước tính, nếu được giới hạn của sự tiêu dùng mũ nấm rất non trẻ (A.M.tome/I/p92) ;
- Ăn được với những nấm non, với một số nhất định của biện pháp phòng ngừa. Có thể dẫn đến sự ngộ độc intoxications ± ( nhiều hay ít lành tính bénignes ).
(remarque sur le Genre Armillaria Guides des champignons de France et d'Europe R. Courtecuisse & B. Duhem.) ;
- Nấm, một phần của những nấm bị từ chối, một số nhất định của sự ngô độc intoxications nghiêm trọng được quy định cho nó (revue Spécial/Champignon n°32 p.12) ;
- Một số nhất định của tác giả khác khuyên nên làm trắng sạch cộng thêm với nấu chín với thời gian dài.
Tốt nhất nên cẫn thân và chỉ ăn những nấm mà chúng ta đã biết và đã ăn thường ngày.