Thứ Bảy, 18 tháng 7, 2020

Muỗng vàng - Golden Spoon


Golden Spoon
Muỗng vàng
Byrsonima crassifolia - (L.) Kunth.
Malpighiaceae
Đại cương :
▪ Danh pháp đồng nghĩa:
- Byrsonima coriacea (Sw.) DC.
- Byrsonima cotinifolia Kunth,
- Byrsonima cubensis A.Juss.
- Byrsonima cuming
▪ Những tên thông thường khác :
- Golden Spoon, Nanche, Nance ...v...v....
▪ Nguốn gốc và sự phân phối.
Cây Muỗng vàng Byrsonima crassifolia có nguốn gốc bản địa và phong phú ở trạng thái hoang dại, đôi khi dân số rộng lớn, trong những rừng thông mở forêts de pins ouvertes và những thảo nguyên đồng cỏ savanes herbeuses, của miền nam Mexique, thông qua bờ biển Thái bình dương côte pacifique của Trung Mỹ Amérique centrale, đến Pérou và ở Brésil; cũng xảy ra ở Trinidad, ở Barbade, ở Curaçao, ở Saint-Martin, Dominique, Guadeloupe, Porto Rico, Haïti, trong Cộng hòa République dominicaine và khắp nơi ở Cuba và đảo Pins île des Pins.
▪ Môi trường sống.
Những Cây Muỗng vàng Byrsonima crassifolia phát triển thành công trong những vùng khí hậu nhiệt đới climats tropicaux và cận nhiệt đới subtropicaux cho đến những độ cao 1 000 mètres.
Chúng chịu đựng ở một phạm vi rộng của những môi trường, của những cánh đồng ẩm nhiệt đới ở những vùng bán sa mạc semi-désertiques.
Cây được tìm thấy trên một đất đá. Nó mọc tốt trên những đất cát sols sablonneux và đất kiềm cát alcalino-sableux. Nó thích ứng tốt để phục hồi của những đất vô trùng và đất bị đốt cháy.
Mặc dù, nó thành công trong những đất nghèo sols pauvres, năng suất tốt hơn thu được khi có một nguồn cung cấp tốt với những nguyên liệu hữu cơ được thêm vào.
Cây mọc tốt nhất trong một đất phì nhiêu và thích hợp với những đất nhẹ ( cát sableux), trung bình ( mùn limoneux) và nặng (đất sét argileux), thích những đất thoát nước tốt và có thể mọc trong trong những đất nghèo chất dinh dưởng nutritionnellement pauvres.
Những cây được ổn định có khả năng chịu đựng khô hạn rất cao, rất chịu đựng được với gió muối, thích những đất khô hoặc ẩm ướt và có thể chịu được khô hạn.
Cây có thể chịu được gió mạnh nhưng không tiép cận với vùng biển.
Độ pH thích hợp : đất acides, trung tính neutres và kiềm basiques (alcalins) và có thể phát triển trong những đất rất kiềm alcalins và mặn salins.
Nó không thể phát triển trong bóng râm.
Một loài thực vật rất đa dạng với một sự phân phối rộng rãi trong châu Mỹ nhiệt đới Amérique tropicale.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
Cây Muỗng vàng nance là một cây bụi lớn hoặc tiểu mộc, cây tăng trưởng chậm đạt dến khoảng 10 m cao hoặc trong một số tình huống nhất định, thậm chí đạt đến 20 m, chịn hạn và có lá rụng, hình dạng thay đổi, tròn và tỏa rộng ra đến hẹp và nhỏ gọn, thân ngắn hoặc cao, xoắn hoặc thẳng.
Vỏ cây có màu nâu đậm, với những vết nứt xần sùi, những nốt trao đổi khí lenticelle. Vỏ trong màu hồng nhạt mờ. Trên thân mang nhiều vết sẹo của những cuống lá nổi bật.
Những nhánh non dày đặc bao phủ bởi những lông tơ màu đỏ với những lông mịn.
, mọc đối, hình bầu dục ellip hoặc thuôn dài ellip, đỉnh nhọn, cùn hoặc nhọn ở đáy gốc, dai, thường, những lông tơ thưa thớt bên trên mặt lá và trở nên láng bóng sáng, nhiều hay ít những lông màu nâu hoặc xám ở mặt dưới lá ngoại trừ những nơi có gân giữa nhô ra; kích thước 3,2 - 17 cm dài và 4-7 cm rộng.
Phát hoa, là một giả chùm pseudoracémeuse mọc thành chùm, thẳng ở ngọn với những lông màu đỏ mịn hoặc có thể nhìn thấy rõ, dài từ 10-20 cm dài và 1,25-2 cm rộng.
Hoa, nhiều, màu vàng trở nên màu cam sậm, đỏ theo độ tuổi, cuống hoa pédicellesdài đến 1,5 cm, với :
- đài hoa, tiến hóa, rời hoặc liên kết bên dưới, mướt ờ mặt trên và có lông mịn mặt dưới. mỗi bên đài mang mang 2 tuyến thấy rõ, cùn, uốn cong, láng ở bên trong.
- cánh hoa, 5, có vuốt, rời, có cuống, dài 10-13 mm,phiến cánh hoa hình lưỡi liềm thường lõm; chiều dài bằng với móng vuốt, rìa cánh không đều, màu vàng lúc ban đầu về sau chuyển sang màu đỏ cam đậm mờ đục.
Một cánh hoa thường nhỏ hơn và duy trì hơi thẳng hơn, những cánh hoa khác lan rộng ra theo phản ảnh của nhụy đực.
- tiểu nhụy, 10, 4-5 mm dài, xếp thành 2 luân sinh 5 rời hoặc kết nối nhau, thường luân sinh ngoài đối diện với cánh hoa mọc xen với những tiểu nhụy dài thẳng,  bao phấn nứt theo chiều dọc, bao phần xâm nhập dài bằng những nhụy cái, những túi phấn thèquenổi bật và phóng thích những hạt phấn trong những chồi hoa, nối tiếp dầy lên.
Read More

Chủ Nhật, 5 tháng 7, 2020

Sứ nhựa - Bellaca caspiis


Bellaco caspiis
Cây Sứ nhựa
Himatanthus sucuuba - (Spruce ex Mull.Arg.) Woodson
Apocynaceae
Đại cương :
▪ Danh pháp đồng nghĩa :
- Plumeria sucuuba
▪ Tên thông thường :
- Sucuúba, succuba, sucuúba- real.
Loài nầy thuộc họ Apocynaceae, của bộ Gentianales, đây là một loài cây lớn có nguồn gốc của vùng amazone amazonienne, nó cung cấp gỗ để xây dựng dân dụng và nghành nghề mộc menuiserie (CORRÊA, 1984).
▪ Môi trường sống.   
Cây sống lâu năm, háo quang héliophile, khí hậu khô chọn lọc xérophyte sélectif, thứ cấp, đặc trưng của những khu rùng amazone trên đất khô cằn và rừng ẩm ướt hygrophile của miền nam Bahia sud de Bahia (rừng nhiệt đới đại tây dương tropicale atlantique).
Nó hiện diện một tần số trung bình với một sự phân tán không liên tục và không đều.
Nó thường xảy ra tốt hơn trong những khu rừng nguyên sinh forêts primaires và thứ cấp của đất cát hoặc đất hỗn hợp, nhưng thoát nước tốt và sâu, đất mùn và tránh những khu vực ngập lụt định kỳ.
Nó sản xuất khả thi hàng năm một số lượng hạt giống vừa phải, phát tán bởi tác động của gió.
Nó mọc khoảng từ 8-16 m cao và có thể tìm thấy trên khắp Nam Mỹ Amérique du Sud nơi đây nó là một dược thảo được biết đến.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
Cây, Bellaco-caspiis Sứ nhựa Himatanthus sucuuba là một cây sống lâu năm và là loài thứ cấp của rừng nhiệt đới ẩm.
Thân hình trụ thẳng từ 8 đến 16 m cao và đường kính có thể đạt từ 30 đến 40 cm, với những lá không rụng và một tán lá hình chóp cao và hẹp, vỏ có đốm sần sùi và nứt nẻ.
Đây là một loài thực vật có mủ latex, khi vỏ thân bị tổn thương sẽ sản xuất ra một chất nhựa sữa trắng latex.
, đơn, mọc cách theo vòng xoắn và láng, dai, bìa lá nguyên, màu xanh lục tươi và đo được khoảng từ 25 đến 30 cm dài trên 3 đến 5 cm rộng.
Khi những lá tách từ thân của chúng ra hoặc những cành cây bị gãy, một chất mủ nhựa sữa trắng latex chảy ra.
Phát hoa, những phát hoa được bố trí ở đỉnh ngọn nhánh với một ít hoa, to và trắng.
Hoa, lưỡng phái, màu trắng thơm, hình chuông bên dưới đáy chuông màu vàng, bao gồm: .
- đài hoa, 5, hiếm khi 4, đài hoa hàn dính ở đáy gamosépale, thùy sâu, nhỏ thường có tuyến ở đáy, lồng vào nhau.
- vành hoa, 5, dính vào nhau hình thành một ống gamopétale tràng , thường xoắn và lồng vào nhau.
Nhụy đực, 4 đến 5 tiểu nhụy, đính vào bên dưới tràng hoa, chỉ ngắn, rời, bao phấn 2 thùy.
Nhụy cái, bầu noãn, thượng 2 tâm bì, rời bên dưới, chỉ có một vòi nhụy ngắn vượt trội, được bao bọc trong một ống tràng hoa; nuốm dày tỏa ra.
Trái, manh nang, khoảng 20 cm, 2 nang đôi giống nhau do bầu noãn 2 tâm bì rời, bên trong chứa nhiều hạt.
Hạt, hình ellip, khô, được bao chung quanh một màng cánh, cấu trúc này mục đích để bảo vệ hạt, màu xanh lụ khi chưa trưởng thành, màu lục đậm khi chí, quả tự khai.
Bộ phận sử dụng :
Vỏ thân và nhựa sữa trắng latex.
Thành phần hóa học và dược chất :
▪ Cây Sứ nhựa Himatanthus sucuuba là một Cây amazone amazonien với những thông tin thực vật dân gian ethnobotaniquesphong phú nhưng đầy mâu thuẩn.
▪ Nghiên cứu những thành phần phân cực constituants polaires và không phân cực non polaires dẫn đến sự phân lập :
Read More

Thứ Hai, 29 tháng 6, 2020

Khổ sâm chống kiết lỵ - Waginos


Waginos
Khổ sâm chống kiết lỵ
Brucea antidysenterica - J.F.Mill.
Simaroubaceae
Đại cương :
▪ Đồng nghĩa.
- Brucea abyssinica Spreng.
- Brucea ferruginea L'H?r.
- Brucea salutaris A.Chev.
▪ Nguồn gốc và sự phân phối địa lý.
Cây Khổ sâm chống kiết lỵ Brucea antidysenterica được xuất hiện rộng rãi trong Châu Phi nhiệt đới Afrique tropicale, Guinée và Nigéria ở miền đông của Éthiopie và miền nam cho đến Angola, Malawi và Zambie.
▪ Hệ sinh thái Ecologie
Cây Khổ sâm chống kiết lỵ Brucea antidysenterica gặp trong những rừng độ cao, trong cạnh bìa rừng và gặp thưòng xuyên trong những rừng thứ cập.
Ngưòi ta tìm thấy giữa 1000–3700 m độ cao, nhưng thường hơn ở 1750–2500 m độ cao.
▪ Môi trường sống Habitats:
▪ Tìm thấy ở Châu Phi nhiệt đới Afrique tropicale, Cây Khổ sâm chống kiết lỵ Brucea antidysenterica là một tiểu mộc bụi đơn phái đồng chu monoïque và cây nhỏ thường được sử dụng trong y học truyền thống như để chữa trị bệnh kiết lỵ dysenterie. Nó đạt được khoảng 7 m cao.
Trong những tầng thực vật bên dưới của những khu rừng thường xanh forêt sempervirente và thường như sự tăng trưởng thứ cấp trong những vùng bị khai phá hoặc ở trong những bìa rừng.
Rừng miền núi Forêts montagneuses, cạnh bìa rừng lisières de forêt và rừng thứ cấp végétation secondaire, và xuất hiện thường hơn ở những độ cao từ 1 750 đến 2 500 m.
Sự nhân giống và trồng trọt.
Sự tăng trưởng bộ phận dinh dưỡng, sự phát hoa, và sự đậu quả của Cây Khổ sâm chống kiết lỵ Brucea antidysenterica diển tiến trong suốt năm, thậm chí trong những mùa khô hạn.
Khổ sâm chống kiết lỵ Brucea antidysenterica có thể nhân giống dễ dàng từ những hạt và được gieo tại chỗ.
Một phương pháp khác của sự lây lan bao gồm sự cấy ghép của những cây hoang dại.
Những hạt có thể được bảo quản ở nhiệt độ trong nhà trong thời gian hơn 1 năm.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
Tiểu mộc bụi hoặc cây nhỏ đơn phái monoïque, đạt đến (7–)10(–15) m cao, phân nhánh đôi khi từ bên dưới.
Vỏ cây màu xám đến màu xám nâu với những vết sẹo của những lá dạng hình trái tim.
Thân non hình trụ, với những lông màu nâu đỏ.
Read More

Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2020

Gỗ đắng - Bitterwood

Bitterwood - Amargo Bark
Gỗ đắng
Quassia amara - L.
Simaroubaceae
Đại cương :
Cây Gỗ đắng Quassia amara thuộc họ Simaroubaceae là một trong những thí dụ điển hình nhất của Cây tự chữa bệnh auto-médicamentée.
▪ Nguồn gốc và vùng trồng trọt.
Cây Gỗ đắng Quassia amara là một cây bên dưới tầng thực vật trong những rừng nhiệt đới liên quan đến thế giới mới, lục địa Châu Mỹ Latin tropicales néotropes và những nơi ẩm ướt  và đặc biệt phong phú trong những rừng tân sinh. Do đó, Cây Gỗ đắng Quassia amara có nguồn gốc của những vùng nhiệt đới Nam Mỹ tropicales d'Amérique du Sud.
Chính xác hơn trong những vùng Caraïbes (Trinité-et-Tobago), trong Trung MAmérique centrale (Costa Rica, Nicaragua, Panama), trong miền nam Bắc Mỹ nord de l'Amérique du Sud (Guyane française, Guyane, Suriname, Venezuela, Brésil, Pérou) và ở miền Tây của Nam Mỹ ouest de l'Amérique du Sud (Colombie, Argentine).
Người ta tìm thấy trong những vùng nhiệt đới gần nơi ẩm ướt, rừng amazon ở độ cao đi từ mức độ mức độ nước biển đến 900 m. Cây Gỗ đắng Quassia amara được thu hoạch theo truyền thống trong những rừng tự nhiên.
Nó sống những vùng có trử lượng nước mưa cao (1500–4500 mm mỗi năm), và có thể xuất hiện trong những đất khô hạn hoặc trong những vùng đất ven sông terres riveraines nơi đây có một độ ẩm cao luôn luôn nhưng có sự thoát nước tốt và ở một vị trí bóng râm một phần.
Cây Gỗ đắng Quassia amara được trồng rộng rãi ngoài phạm vi bản địa của nó.
Những báo cáo trạng thái của sự trồng trọt trong những nước Trung MAmérique centralevà Nam Mỹ Amérique du Sud.
▪ Nhu cầu đất, khí hậu và ánh sáng.
Cây Gỗ đắng Quassia amara thích hợp với những đất trung bình (mùn limoneux) và nặng (đất sét argileux). Nó thích những đất giàu, giữ nước. Cây có thể thích ứng với những giá trị khác nhau của độ kiềm pH trong đất.
Đây là một cây nhạy cảm với sương giá. Sự dung nạp với muối và dung nạp với độ khô của nó khấp .
Nó được phân loại như loại cây bán chịu đựng một cường độ ánh sáng thấp semi-sciophytevới một dung nạp lớn ở những điều kiện bóng râm nhưng với một một yêu cầu cần tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời để hoàn tất chu kỳ đời sống của nó, đặc biệt do sự ảnh hưởng của nó trên sự sản xuất hoatrái.
Một sự gia tăng của những điều kiện cường độ ánh sáng gia tăng sự sản xuất của hoavà của trái mặc dù nó không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản fertilitécủa những hạt.
Do đó, sự tái sinh tự nhiên của nó dường như là bị hạn chế bởi ánh sáng và sự canh tranh giữa những loài cây rừng của những tầng thực vật bên trên.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
Tiểu mộc bụi hiếm khi có một Cây nhỏ với nhiều thân, có lá không rụng, phát triển chậm với những nhánh phân nhánh không thứ tự, đạt đến 3 m chiều cao, hiếm khi đến 8 m, .
Vỏ Cây trơn láng mịn và có màu nâu xám nhạt dầy, được cắt ngang bởi những đường liên kết ngang.
Chất nhựa résine của Cây là một trong những chất đắng nhất trên trái đất, nó cũng có thể được sử dụng để tạo hương vị cho những rượu mùi, mứt, bánh pudding.
, lá kép, dạng hình lông chim với những lá phụ 3-5 , có gân sâu, mọc cách, màu xanh lá cây đậm, đo được 15–25 cm dài, đỉnh nhọn thu hẹp lại về phía đáy lá và được phân biệt bởi trục sống rộng có cánh và gân lá của chúng màu đỏ nhạt. Những lá phụ mọc đối thuôn dài, đầu nhọn và không đều ở bên dưới.
Phát hoa, chùm ở ngọn với những nhánh chùm hình chùy màu đỏ, 10–30 cm dài, sản xuất ra những hoa màu đỏ thẫm hẹp và đỏ tươi ở bên ngoài và màu trắng bên trong, kích thước 2,5-3,5 cm dài, trang hoàng cho mỗi đỉnh ngọn của mỗi thành viên nhỏ. Những hoa rất mỏng manh và rơi xuống từ những trục sống chỉ một chạm nhẹ vào.
Hoa, nhỏ màu xanh vàng nhạt bao gồm :
- đài hoa hình bầu dục, dính liền với nhau ở đáy và lồng vào nhau.
- cánh hoa, 5 hình mũi dáo hầu hết chúng được đóng lại với nhau hình thành một hình trụ sắc nét, nó thường mở ra trong 2 ngày vào thời kỳ trổ hoa và mỗi phát hoa có 4 hoa mở ra cùng một lúc.
- tiểu nhụy 10.
- bầu noãn, 5 tâm bì, vòi nhụy dính vào nhau từ dưới lên trên.
Trái, 5 trái nhỏ hình ellip, nạt thịt, màu tím đen, dài khoảng từ 0,8 đến 1,5 cm dài thay thế những hoa và trở nên màu đỏ khi chúng trưởng thành.
Mỗi trái chứa 1 cây nhỏ. Tất cả những bộ phận của Cây Gỗ đắng Quassia amara đều chứa chất quassimarineđắng.
Read More

Thứ Ba, 9 tháng 6, 2020

Thiên đàn - Paradise tree


Paradise tree
Cây Thiên đàn
Simarouba amara - Aubl.
Simaroubaceae
Đại cương :
▪ Danh pháp khoa học đồng nghĩa:
- Quassia simaruba L.f.
- Simarouba opaca (Engl.) Radlk. ex Engl.
- Zwingera amara (Aubl.) Willd.
▪ Danh pháp thông dụng.
Cây Thiên đường Simarouba amara được biết dưới nhiểu tên thông thường, trong những vùng tân nhiệt đới néotropiques.
◦ ở Bolivie, nó được biết dưới tên chiriuana,
◦ ở Brésil dưới tên marupa, marupuaba, parahyba, paraibatamanqueira.
◦ trong Colombie, người ta gọi là simaruba,
◦ trong Équateur như cedro amargo, cunaguitarro,
◦ trong Guyane pháp như simarouba,
◦ trong Guyane như simarupa,
◦ ở Pérou như marupa,
◦ ở Surinam như soemaroeba,
◦ ở Venezuela như cedro blancosimarouba.
◦ Việt Nam gọi Cây Thiên đàn.
Trong Châu Âu Europe, nó được biết dưới nhiều tên khác nhau trong thế kỹ XIXe siècle khi nó được sử dụng như một thuốc; những tên nầy bao gồm :
- frêne amer,
- gỗ đắng bois amer,
- prune de montagne,
- và bois de charpente.
Một cây dưới tầng thực vật của những cây bụi ẩm hoặc của những khu rừng ẩm ở những độ cao lên đến 850 mètres.
- Rừng mưa và những thảo nguyên.
▪ Tìm thấy trong những khu rừng nguyên thủy rậm và cũng trong những vùng tăng trưởng của những rừng mở và rừng thứ cấp.
● Sự phân phối.
Phạm vi phân phối tự nhiên của Cây Thiên đường Simarouba amara được tìm thấy trong những vùng tân nhiệt đới néotropiques, những vùng sinh thái écorégion của Trung Mỹ Amérique centrale và Nam Mỹ Amérique du Sud.
Phạm vi phân phối lan rộng từ Guatemala ở miền Bắc, đến Bolivie ở miền nam và từ Équateur phía Tây ouest, đến bờ biển phía Tây của Brésil.
Nó đã được du nhập vào trong những đảo của Dominique và Porto Rico trong thế giới mới Địa trung hải Caraïbes, trở thành tịch hóa ở Porto Rico.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
Cây Thiên đường Simarouba amara, là một đại mộc, thẳng, hình trụ, có thể đạt đến 35 mètres cao, với một đường kính của thân tối đa 125 cm và một tuổi tối đa ước chừng 121 năm.
Những cây còn non trẻ thường là một cây thẳng, với nhiều lá kép và chỉ một điểm tăng trưởng. Điều nầy cho phép những cây non đạt đến một sự tăng trưởng thẳng lớn nhất với một sinh khối biomasse tối thiểu.
Vỏ của những Cây lớn là màu xám sáng với những vết màu xanh lục đậm và màu xanh lục sáng, điều nầy giống như ngụy trang camouflage.
Người ta nghĩ rằng hiện tượng nầy cho phép Cây Thiên đường Simarouba amara có một quang tổng hợp photosynthétiser hiệu quả hơn, bởi vì những lá mới hiệu quả hơn những lá thay thế.
, lá kép mỗi lá đo được khoảng 60 cm dài, những cuống lá 4-7 cm dài và mỗi lá kép với 9-16 lá phụ. Mỗi lá phụ đo được 2,5–11 cm dài và 12–45 mm rộng, những lá phụ về phía đỉnh ngọn của lá kép có xu hướng nhỏ hơn.
Những lá phụ láng, màu xanh lá cây sáng và không đối xứng, nửa bên ngoài rộng hơn nửa bên trong. Bên dưới của những cuống lá phồng lên, phẳng dẹp theo chiều dọc. Những lá bị gẫy hoặc những vết cắt dát trên thân cây tạo ra một nhựa trong suốt và có một hương vị đắng.
Hoa, đơn phái tương đối nhỏ đính trong một chùm hoa hình chùy mang nhụy hoa nhưng không có nhụy hoa như hoa đực staminate panicle, khoảng 30 cm dài, phân nhánh rộng và rậm bao phủ bởi những hoa.
Hoa, mỗi hoa gồm:
- đài hoa, gồm 4-5 hoặc 8 đài, nhiều hay ít kết nối với nhau, lồng vào nhau.
- cánh hoa, 4-5 hoặc 8 cánh, rời, lồng vào nhau, xoắn vẹo.
- Cơ quan sinh dục đực androcée, gồm có 4-5 hoặc 8 nhưng đôi khi số lượng nhụy đực có thể gắp đôi diplostémone với 8-16 nhụy đực.
Nó mọc xen với cánh hoa bà rời. Chỉ nhụy đực thường có với phần đáy hình vuông có lông mịn hoặc không.
- Bầu noãn, thượng, với 2-5 tâm bì, đôi khi rời hoặc hơi dính bên dưới, mỗi tâm bì chứa 1-2 noãn, 2 đến 5 vòi nhụy dính hoặc rời.
Trái, hợp thành nhóm từ 3 đến 5 những trái drupes, có màu xanh lá cây tươi đến màu đen tím, khoảng 17 mm dài và chứa những hạt lớn (10–14 mm).
Hạt, mỗi hạt nặng khoảng 0,25 g, được phân tán bởi những động vật có xương sống.
Bộ phận sử dụng :
Lá, vỏ cây, trái.và hạt.
Thành phần hóa học và dược chất :
Vỏ rễ của Cây Thiên đường Simarouba amara chứa một nguyên chất đắng amertương tự với chất quassin, một chất nhựa résineuse, một dầu dễ bay hơi huile volatile có một mùi hôi của benzoin C14H12O2, acide malique, acide gallique với một tỹ lệ rất thấp, một muối sel ammoniacal, malate de calcium và oxalate, một số nhất định những muối khoáng sels minéraux, oxyde ferrique, silice, ulmin và chất lignine.
◦ Nó dễ dàng truyền đạt những hiệu năng của nó ở những nhiệt độ bình thường với nước và alcool.
Ngâm trong nước đun sôi infusioncũng đắng như nước nấu sắc décoction, trở nên đục khi nguội.
Từ năm 1930, họ của những Cây Simaroubaceae đã là một đối tượng của nhiều nghiên cứu liên quan đến thành phần hóa học, và nhiều hợp chất đã được phân lập và cấu trúc của chúng đã được làm sáng tỏ, trong số nầy :
- những quassinoïdes,
- alcaloïdes,
- triterpènes,
- stéroïdes,
- coumarines,
- anthraquinones,
- flavonoïdes,
- và những chất chuyển hóa biến dưởng khác métabolites(Barbosa và al., 2011).
Read More

Thứ Hai, 1 tháng 6, 2020

Cà Dược Ấn - Indian Belladonna


Indian Belladonna
Cà dược Ấn
Atropa acuminata - Royle. ex Lindley.
Solanaceae
Đại cương :
▪ Môi trường sống :
Cây Cà Dược Ấn Atropa acuminata thuộc họ Solanacaea. Nó có nguồn gốc ở Ấn Độ và cũng được biết đến dưới tên như :
- Banewort Indien, hoặc Belladonna,
ở Châu Âu Europe, Bắc Phi Afrique du Nord, và Tây Á Asie occidentale, và trở nên tịch hóa trong một số bộ phận của Bắc Mỹ Amérique du Nord. Trong những vùng nơi đây nó đã được tịch hóa, nó thường có thể được tìm thấy trong những vùng bóng râm và ẩm, với một đất giàu chất vôi calcaire, nó mọc ra thậm chí ở độ cao 3600 m bên trên mực nước biển.
Tên thông thường Belladonna, gồm có “donna” là từ có nguồn gốc ở tiếng Ý có nghĩa là “ người phụ nữ ” , Bella” là “đẹp” và Belladonna có nghĩa là «phụ nữ đẹp belle femme».
● Thuốc giải trí : Drogue récréative
" Cây Cà Dược Ấn Atropa acuminata ", cũng như những thực vật liên quan như là Cây Cà Độc dược stramoine và Cây Cà Dược Belladonna, đôi khi được sử dụng như một thuốc giải trí drogue récréative do nguyên nhân của những ảo giác hallucinations và mê sảng mà chúng tạo ra.
Những ảo giác hallucinations nầy thường được mô tả nhiều nhất như là rất khó chịu, tuy nhiên, sự sử dụng giải trí được xem như cực kỳ nguy hiểm do quá liều có nguy cơ cao đưa đến tử vong không tự nguyện mortelle involontaire.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
Cây Cà Dược Ấn Atropa acuminata, thực vật thân thảo sống lâu năm, thân phân nhánh có thể đạt đến độ cao khoảng 0,9 m. Đôi khi, nó đạt tơí 1,5 m chiều cao. Với Cây nầy, nó có hình dáng hơi lớn hơn Cây Cà Dược Atropa belladonna.
Lá, khoảng 8-17 dài x 4,5-8,0 cm rộng, hình dạng ellip-mũi dáo đến bầu dục mũi dáo, đầu nhọn, hình nêm cunéiforme. cuống lá ngắn dài đến 20 mm. Màu xanh lục đậm khi già trở nên màu hơi đỏ nhạt trong tất cả những bộ phận của Cây.
Hoa, màu vàng nhạt đến màu nâu nhạt và có hình chuông. Hoa lưỡng phái và được thụ phấn bởi những côn trùng (trùng môi).
- đài hoa, cắt 9-15 mm dài, đạt đến 20 mm trong những trái, ± hình chén, có lông mượt, thùy 6-10 mm dài, hình bầu dục nhọn, không đều nhau, không rụng.
- Vành hoa, 20-23 mm dài, màu vàng, thùy cùn .
- tiểu nhụy, không nhô ra ngoài hoa, bao gồm bao phần 3 mm dài, chỉ dạng thuôn dài 10-11 mm dài.
Trái, quả mọng, rộng khoảng 10 mm, ban đầu màu xanh lá cây, trở nên màu đen khi trưởng thành, không bao giờ có màu đỏ.
Những trái, là cực kỳ độc hại, đặt để xa những trẻ em bởi vì màu sắc và hương vị rất hấp dẫn đối với chúng.
Hạt, nhỏ, 2 mm dài, hình lưới, hình cầu, màu nâu.
Bộ phận sử dụng :
▪ Tất cả những bộ phận của Cây.
Rễ là bộ phận hoạt động nhất của Cây, nó được thu hoạch vào mùa thu và có thể từ 1 đến 3 năm tuổi, mặc dù những rễgià nhất là rất lớn và khó khăn để đào lên.
▪ Những được thu hoạch vào cuối mùa xuân và được sấy khô bảo quản để sử dụng về sau.
Thành phần hóa học và dược chất :
▪ Tất cả những bộ phận của Cây có chứa :
- những alcaloïdes atropine,
- hyoscyamine,
- và bellodonnine,
▪ Những Cà Dược Ấn Atropa acuminata chứa trung bình :
- 0,4% những alcaloïdes hoạt động,
trong khi những rễ chứa khoảng 0,6%.
Read More

Thứ Bảy, 23 tháng 5, 2020

Củ cải quỷ - Red Bryony

Red Bryony
Nho quỷ - Củ cải quỷ
Bryonia dioica - Jacq.
Cucurbitaceae
Đại cương :
Danh pháp đồng nghĩa:
Bryonia cretica dioica. (Jacq.)Tutin.
Nguồn gốc của tên :  
Từ tiếng Hy lạp grec « brueïn »,  mọc rất mạnh bởi vì nó có một rễ mạnh, « cretica », của Crête,  và của « dioica », 2 nhà bởi vì 2 phái tính được tách biệt cho những hoa.
Tên thông thường cho mỗi quốc gia :
Một số tên phổ biến của Dây Nho quỷ Bryonne dioïque, như :
- Feu ardent, có nghĩa là nó không làm trà thảo dược tisanevới rễ hoặc những bộ phận khác của Cây.
- DE : Zweihäusige Zaunrübe ;
- ES : aquilonia ;
- FR : bryone dioïque, Rave-de-serpent, Navet du diable ;
- IT : ; PT : norça-branca ;
- EN : white bryony ;
- VN : Nho quỷ, Củ cải quỷ, Củ cải rắn .
▪ Môi trường sống :
Trong đám của những giống dưa chuột concombrescó một đại diện duy nhất trong số những loài thực vật hoang dả  trong giống Bryony với quả mọng đỏ, phổ biến hoặc màu trắng.
Đây là một Dây leo grimpante sống lâu năm bởi rễ của nó, giống như Dây nho vigne mọc trong những khu rừng và những hàng rào haies, và cực kỳ phổ biến trong miền nam nước Anh Angleterre, hiếm hơn trong những quận của những miền Trung du Midlands, và thường không tìm thấy trong miền Bắc nước Anh Angleterre. Nó thường xuyên mọc trong trung Âu Europecentrale và nam Âu méridionale.
▪ Huyền thoại
Dây Nho quỷ Bryonia dioica, bao gồm rễ giả mạo đôi khi thô dưới dạng hình con người, gần với những nhà phù thủy sorciers đã sử dụng để chế tạo một thay thế rễ Cây Cà ma thuật mandragore.
Cây Cà ma thuật mandragore là một con quái vật nhỏ monstrecủa huyền thoại như vậy có sự bảo đảm sự may mắn và giàu có (thật sự Cây ma thuật mandragore là một họ Cà Solanaceae độc vénéneuse gần với Cây Cà dược belladone)
Ngay từ thời Cổ đại Antiquité, nó được ghi nhận với sức mạnh để tránh xa cơn sấm sét foudre. Người ta tuyên bố rằng trong trường hợp đau răng rage de dents, nó chỉ cần mang một miếng của rễ trong túi để xua đuổi cái tà ác mal.
Vào thời Trung cổ Moyen Âge, Dây Nho quỷ Bryonia dioica có tiếng gia tăng mức độ chịu đựng với rượu alcool.
Bên cạnh đó, Sainte Hildegarde đã biện hộ : «để bảo đảm của sự say rượu ivresse, uống nước ép jus của Dây Nho quỷ Bryonia  dioica với càng nhiều giấm vinaigre, cũng như cả tuần người ta sẽ không bị say rượu».
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
Thực vật sống lâu năm đây là một thực vật dioïque với những lông nhỏ phồng lên ở đáy, với những tua cuống đơn giản xoắn ốc mọc đối diện với lá, bám vào đài vật mọc ra từ của những đốt.
Thân rất dài (dây leo), cao đến 500 cm, rất lớn hình trụ. mảnh mai, nằm hơặc leo, mang những lá hình chân vịt.
Rễ, rất lớn, nạt thịt, hình trụ và giàu thành phần tinh bột amidonnhưng độc hại toxique giống như những trái của nó (quả mọng đỏ baies rouges).
, mọc cách, dáng hình trái tim ở đáy, có cuống, gân lá hình lông chim, với 3 (-5) thùy nhọn, không răng hoặc với vài răng cùn, thùy trung tâm lớn hơn những thùy bên với những lông thô.
Phát hoa, chùm tụ tán, mọc ở nách lá, những hoa đực có cuống dài hơn những hoa cái.
Hoa, hoa đều, 10-18 mm, màu trắng xanh lục nhạt, có đường gân đậm hơn, trong nách lá (cây dioïque đơn phái biệt chu). Những hoa đơn phái unisexuéeshoa đực và hoa cái tìm thấy trên những cây khác nhau.
- đài hoa, 5 hình tam giác hàn dính nhau, màu xanh lục nhạt.
- hoa đực, fleurs mâles, lớn nhất, có cuống, trong một chùm rủ rơi xuống, mang những tiểu nhụy màu vàng với 5 tiểu nhụy và gồm có những bao cứng của những bao phấn có dạng hình chữ U (một đặc thù của họ bầu bí Cucurbitaceae), dài lớn hơn những hoa cái.
- hoa cái fleurs femelles, nhỏ hơn, bầu noãn hạ, dễ nhìn thấy với 3 phôi lớn, cuống hoa yếu, với 3 vòi nhụy style, 3 nuốm stigmates trong một chùm nhỏ bên mang bởi 1 chân khác nhau.
Trái, quả mọng nhỏ (5 đến 8 mm đường kính), nạt thịt, mọc thẳng lên, hình cầu, láng, xanh sau đó màu đỏ khi trưởng thành chín, dịch nước hôi, bên trong chứa từ 4 đến 6 hạt hình ellip.
Bộ phận sử dụng :
– Rễ đôi khi trái (cảnh báo với độc tính toxicité, đặc biệt sử dụng trong vi lượng đồng căn homéopathie)
Rễ Dây Nho quỷ Bryonia  dioica được thu hoạch vào mùa thu và được sử dụng ở trạng thái tươi và khô.
◦ Khi còn tươi, có màu vàng bẩn hoặc trắng vàng nhạt, đánh dấu bên ngoài với khoảng cách gần với những đường vân ngang nổi bật, thường trải tới phân nửa chung quanh rễ và mang lại cho nó có những vết nhăn chung quanh.
Bên trong, nó màu trắng nhạt, mọng nước và nạt thịt với một mùi làm cho buồn nôn - nó biến mất trong phần lớn mẩu vật sấy khô - và một hương vị đắng và chát.
◦ Dung dịch ép jus thoát ra khi cắt rễ là dung dịch sữa trắng laiteux, do sự hiện của nhiều hạt tinh bột grains d'amidon nhỏ
Rễ, có thể đo được 75 cm dài và 75 mm dày, được sử dụng tươi bất cứ lúc nào trong năm, nó cũng có thể được thu hoạch vào mùa thu và được sấy khô bảo quản để sử dụng về sau.
Thành phần hóa học và dược chất :
Thành phần tổng quát :
- Glycosides (trong những rễ)
- Cucurbitacines (rễ)
- Saponosides (trái)
Read More

Thứ Hai, 18 tháng 5, 2020

Cà Ma thuật - Mandrake

Mandrake
Cà Ma thuật
Mandragora officinarum - L.
Solanaceae
Đại cương :
▪ Danh pháp đồng nghĩa :
- Atropa acaulis Stokes.
- Atropa mandragora L.
Mandragore là tên thông thường cho những thành viên của giống thực vật Mandragora, đặc biệt loài Cà Ma thuật Mandragora officinarum, thuộc họ Solanacea, bao gồm Mandragora officinarum L. và Mandragora vernalis Bertol (đôi khi gọi là Atropa mandragora).
Bởi vì giống Mandragora có chứa những alcaloïdes tropanesgây ra ảo giác ảo tưởng hallucinogènesdélirants như là :
- atropine,
- scopolamine,
- apoatropine,
- và hyoscyamine,
và đôi khi những rễ có những nhánh chẻ đôi khiến chúng có hình dạng con người, những rễ được sử dụng từ lâu trong các nghi lễ ma thuật rituels magiques
Mandragore hoặc Cà Ma thuật Mandragora officinarum là một thực vật thân thảo sống lâu năm, của những nước chung quanh vùng Địa trung hải Méditerranéen, thuộc họ Cà Solanaceae, họ hàng của Cây Cà dược belladone.
▪ Môi trường sống:
Cà Ma thuật Mandragora officinarum, đối tượng của rất nhiều mê tín lạ thường étranges superstitions, có nguồn gốc của miền nam Châu Âu sud de l'Europe và Levant, nhưng cũng phát triển ở trong những khu vườn nếu nó gặp một tình huống ấm áp, nhưng nếu không nó sẽ không sống qua một mùa đông khắc nghiệt.
Nó được trồng ở Anh quốc Angleterre vào năm 1562 bởi Turner, tác giả của Niewe Herball.
▪ Sự phân phối:
Cà Ma thuật Mandragora officinarum tìm thấy trong miền nam Châu Âu sud de l'Europe, Bồ đào Nha Portugal đến Hy lạp Grèce; nó khá phổ biến trong Hy lạp Grèce và trong Ý Italie(Festi và Aliotta 1990 *; Viola 1979, 175 *). Nó không bao giờ xảy ra ở phía bắc hoang dả của những dảy núi Alpes (Beckmann 1990, 129 *). Nhưng rễ đề kháng với mùa đông và có thể trồng trong trung và bắc Âu Châu.
Người ta cũng tìm thấy trong Bắc Phi Afrique du Nord, trong Tiểu Á Asie Mineure, ở Trung Đông Moyen-Orient và trên hầu hết của những đảo Địa trung hải îles méditerranéennes (Chypre, Crète, Sicile) (Georgiades 1987, 50 *; Sfikas 1990, 246 *).
Nó thường phát triển trong những nơi khô và nắng, thông thường dọc theo những con đường mòn và chung quanh những ngôi đền cổ xưa.
Tuy nhiên, nó là một trong những thực vật  hiếm nhất ở Châu Âu Europe.
▪ Những rễ của Mandragore là rất gần với Cây Cà dược Belladonna, cho cả hai hình dáng bên ngoài lẫn cấu trúc bên trong.
Cây nầy bởi những nhà thực vật học hiện đại botanistes modernes đã đưa vào cùng một giống, mặc dù trước đây được biết dưới tên Mandragora officinarum, với những loại variétés: - Mandragora vernalis,
- và Mandragora autumnalis.
▪ Hình dáng và giai thoại :
Cây nầy, giàu chất alcaloïdes với những đặc tính gây ra ảo giác hallucinogènes, được bao quanh nhiều truyền thuyết légendes, những người xưa cho nó có những hiệu năng ma thuật vertus magiques kỳ diệu lạ thường.
◦ Những rễ của Cây Mandrake Cà Ma thuật Mandragora officinarum được cho là có nét tương đồng với hình dạng con người, do chúng có thói quen tách làm đôi bifurquerthành hai và bắn ra ở mỗi bên.
◦ Trong những thảo tập xưa, người ta đã tìm thấy thường xuyên thể hiện như một con người đàn ông với một râu dài và một người phụ nữ với một mái tóc rất rậm rạp.
Nhiều người mê tín kỳ lạ đã quay quần chung quanh rễ Cây Mandrake Cà Ma thuật Mandragora officinarum.
Như một bùa hộ mạng, khi xưa nó được đặt trên những lò sưởi để tránh những điều bất hạnh và mang lại sự thịnh vượng và hạnh phúc trong nhà.
◦ Cây được cho là phát triển dưới cái giá treo cổ của những kẻ giết người potence des meurtriers, và người ta nghĩ rằng đây là cái chết để đào rễ, được cho là nó đã thốt ra một tiếng thét và những tiếng rên rỉ khủng khiếp khi được đào lên, không có ai có thể nghe và sống.
Do đó, nó đã quyết định rằng người ta muốn lấy một nhánh Cây Mandragore Cà Ma thuật Mandragora officinarum phải buộc nó vào một con chó cho mục đích nầy, người ta cho rằng khi đào lên chắn chắn sẽ bị diệt vong, như một người đàn ông đã làm, nếu anh ta cố gắng đào lên trong một cách bình thường.
◦ Nó có nhiều gợi ý với Cây mandragore Cà Ma thuật Mandragora officinarum ở những nhà văn cổ đại.
Thực vật và môi trường :
▪ Mô tả thực vật :
Cây, cao khoảng 30 cm, tỏa ra một mùi rất mạnh. Đây là một thực vật thân thảo phổ biến, trên thực tế nó không có thân.
Nó có một rễ lớn màu nâu giống như Rễ Củ cải thơm hoang panais (Pastinaca sativa-Apiaceae), chìm sâu đến 93 hoặc 122 cm vào trong đất, đôi khi duy nhất và đôi khi phân chia thành 2 hoặc 3 nhánh và có những rễ phụ.
Read More