Slender Wart Weed
Rong Rau câu - Hồng tảo
Gracilaria gracilis (Stackhouse) M.Steentoft, L.M.Irvine & W.F.Farnham
Gracilariaceae
Đại cương :
▪ Sinh học biologie – Môi trường :
Rong Rau câu Gracilaria gracilis là một hồng tảo biển lớn thuộc ngành Rhodophyta, Florideae, Gigartinales, họ Gracilariaceae.
Như những hồng tảo algues rouges khác, hàm lượng thạch agar trong nó cũng được bao gồm trong nhóm loài rong biển có chứa thạch agar agarophytes. Nó hìện diện trong toàn thế giới và sống trong những vùng biển ôn đới với một độ sâu bao gồm giữa 0 và 20 m.
Chu kỳ sinh sống của nó, sự tăng trưởng và hàm lượng chất phycocolloïdescủa nó phụ thuộc vào những thông số khác nhau của nước biển, như là :
- nhiệt độ,
- và độ mặn salinité,
- độ chiếu xạ irradiation,
- những thành phần nguyên tố muối dinh dưởng hoà tan sels d'éléments nutritifs,
- sự hiện diện của những loài tảo khác và những loài thực vật phụ sinh épiphytes.
Nhiệt độ tối ưu cho sự tăng trưởng là bao gồm từ giữa 19° C và 23° C.
Tảo cho thấy chịu được với những nhiệt độ tới 28 ° C.
● Sự phân phối :
▪ Rong biển được phân bố rộng rãi chung quanh những đảo Anh quốc từ những Shetlands đến đảo Anglo-Normandes.
▪ Châu Âu : Địa trung hải Méditerranée, Portugal, bờ biển Đại tây dương Atlantique của Espagne, Hoà lan Pays-Bas, Helgoland, biển Baltique và Norvège.
▪ Những bờ biển Đại tây dương atlantiques của Mỹ Amérique :
từ Canada đến Brésil.
Xa hơn : những Bermudes, những đảo Canaries, Namibie, Nam Mỹ Afrique du Sud, Ấn Độ Indevà Thái bình dương Océan Pacifique , từ Colombie-Britannique đến Basse-Californie, Philippines và Fidji.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
▪ Hình thái :
Rong đỏ nầy giòn như sụn, hình trụ, màu đỏ đục, dài khoảng đến 500 mm, một hoặc nhiều phát sinh từ một đĩa nhỏ nạt sống lâu năm.
Phân nhánh rất không đều, thưa thớt hoặc rậm rạp, những nhánh tập hợp thành bụi đến 2 mm đường kính, đỉnh nhọn. Nội mô là những tế bào to nhiều hay ít không màu với vách ngăn mỏng, với những vùng vỏ ngoài hẹp gồm những tế bào nhuộm màu.
▪ Chu kỳ sinh sống :
Rong Rau câu Gracilaria gracilis đặc trưng bởi một chu kỳ sinh sống cycle vital theo kiểu của Polysiphonia, với một tứ bào tử thực vật tétrasporophyte lưỡng bội diploïde luân phiên thường xuyên, độc lập và hình thái giống nhau của những giai đoạn giảm nhiễm (n) giao tử thực vật gamétophytiquehaploïde, phần sau này bao gồm một số lượng bằng nhau của cây đực mâle và cây cái femelles.
Chu kỳ sinh sống của Rong đã được nghiên cứu và mô tả bởi nhiều tác giả, nhưng sự mô tả đầy đủ nhất và kỹ lưỡng nhất được đưa ra bởi Polifrone và al. :
« Những tứ bào tử thực vật tétrasporophytes lưỡng bội diploïdes phóng thích những tứ bào tử tétraspores có nguồn gốc từ những kết quả của sự phân bào giảm nhiễm méiotiquesvà phát triển thành những giao tử thực vật gamétophytesđồng dạng ( những thế hệ hình thái học giống nhau ) isomorphes đã phân bào giảm nhiễm (n) haploïdes.
Những giao tử thực vật đực gamétophytes mâles được phóng thích trong môi trường nước của những tinh trùng spermaties, không có chiên mao flagelles và được chuyên chở bởi những dòng nước để tiếp cận với những giao tử thực vật cái gamétophytes femelles và thụ tinh cho ra những thư quả thư quả hay quả bào tử phòng ( cơ quan sinh dục cái hồng tảo ) carpogonium.
Hợp tử zygote phát triển thành một quả bào tử thực vật carposporophyte phóng thích trong môi trường, một số lượng lớn quả bào tử quả bào tử carpospores lắng xuống, nảy mầm và sản xuất một tứ bào tứ thực vật mới tétrasporophytes.
Những khối kết tụ hình cầu agglomérats sphériques của những tế bào mới xuất hiện của những giai đoạn đầu của sự phát triển của những tứ bào tử thực vật tétrasporophytes non trẻ, tăng sinh nẩy nở và tạo ra một tản thallesmới, trong khi những phần còn lại của những tứ bào tử thực vật tétrasporophytes tiếp tục theo mô hình phát triển bình thường.
Những tản thalles Rong Rau câu Gracilaria gracilis từ những khối kết tụ hình cầu agglomérats sphériques không có khả năng kết dính vào nền đài vật và có thể là do một phần hình thức của quần thể dân số populationsống phù du trôi nổi pleustophytique trong cùng một môi trường ».
Sản phẩm, chế biến từ rong, agar agar.
Thành phần hóa học và dược chất :
▪ Lipides và acides béo acides gras (FAME)
Những chất béo lipides cấu thành một nhóm quan trọng của hợp chất tự nhiên bao gồm :
- những chất béo graisses,
- những chất sáp cires,
- stérols,
- những vitamines hoà tan trong chất béo liposolubles ( như là những vitamines A, D, E và K),
- những đơn đường mở monoglycérides,
- diglycérides,
- những phospholipides,
- những caroténoïdes, v…v….
Nó đóng vai trò của nhiều chức năng sinh học biologiques, nhất là :
- tồn trữ năng lượng énergie,
- những thành phần cấu trúc của những màng tế bào,
- và những phân tử tín hiệu molécules signalisation.
Mặc dù những con người và những loài hữu nhũ khác mammifèressử dụng đường sinh tổng hợp biosynthèseđể phân hủy và tổng hợp những chất béo lipides, một số nhất định chất béo thiết yếu khác lipides essentiels chỉ có thể thu được bởi chế độ ăn uống thực phẩm régime alimentaire.
▪ Stérols
Thành phần của những phần đoạn stérols trích xuất của Rong Rau câu Gracilaria gracilis đã được nghiên cứu để mà xác định nếu những chất phytostérols, những stérols của cấu trúc C28 và C29, đã được hiện diện.
Điều này là do sự hiện diện lớn của những hợp chất này để :
- hoạt động sinh học bioactivitécủa nó,
- và sự sử dụng thực phẩm dinh dưởng nutraceutique và dược phẩm pharmaceutiqueđầy hứa hẹn.
Thật vậy, chúng là những tiền chất của một số nhất định những phân tử hoạt động sinh học molécules bioactives ( ví dụ, ergostérol là một tiền chất của vitamine D2) và nó cũng cho thấy rằng giảm những mức độ tổng số cholestérol (total) và LDL ở người bằng cách ức chế sự hấp thu của cholestérol bởi đường ruột intestin.
Hơn nữa, những phytostérols có một hoạt tính :
- chống viêm anti-inflammatoire,
và có thể là đặc trưng bởi những hoạt động :
- chống ung thư anticancéreuses,
- và chống oxy hóa anti-oxydantes.
▪ Chất đạm Protéines :
Những tảo lớn macroalgues là một nguồn duy nhất của chất đạm protéines mặc dù hàm lượng rất thay đổi.
Những chất đạm protéines, bao gồm :
- những acides aminés khác nhau,
và phẩm chất dinh dưởng nutritionnelle có thể được xác định về cơ bản bởi :
- hàm lượng, tỷ lệ và sẵn có của những acides aminés này.
▪ Thành phần Phycobiliprotéines :
Những phycobiliprotéines là những chất đạm protéines với những nhóm prosthétiquescủa tétrapyrrole thẳng linéaires(bilines) trong trạng thái chức năng của chúng, liên kết theo cách cộng hóa trị covalente với những dư lượng của cystéine đặc biệt của những chất đạm protéines.
Những chất đạm protéines này tìm thấy trong những nhóm :
- rong thanh tảo cyanobactéries (thanh tảo algues bleu-vert), trong lớp tảo đơn bào có 2 chiên mao algues eucaryotes unicellulaires biflagellées (cryptomonads),
- và trong những hồng tảo Rhodophyta (tảo đỏ algues rouges).
Trong tất cả những chất, những phycobiliprotéines hành động như những sắc tố pigments công cụ của quang tổng hợp photosynthèse.
▪ Tổng số hàm lượng phénolique total :
Những phénols cấu thành một nhóm quan trọng của sản phẩm tự nhiên với những đặc tính :
- chống oxy hóa antioxydantes,
- và sinh học biologiques.
Những hợp chất này đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ của những tế bào tảo algues chống lại :
- sự căn thẳng phi sinh học stress abiotique,
- và sinh học biotique.
Nhiều trong số đó có những hoạt động :
- chống oxy hóa antioxydantes,
- kháng vi khuẩn antimicrobiennes,
- và chống siêu vi khuẩn antivirales
quan trọng để bảo vệ của những tế bào rong biển cellules d'algues chống lại những điều kiện của sự căng thẳng stress.
Nhiều tác giả gần đây đã công bố những kết quả liên quan đến hàm lượng tổng số chất phénol (total) và hoạt động chống oxy hóa antioxydante của những rong biển algues.
▪ Tổng số đường Glucides (totaux)
Những glucides đóng nhiều vai trò thiết yếu ở sinh vật sống.
Những đơn đường monosaccharides là nguồn chánh của năng lượng énergie cho chuyển hóa chất biến dưởng métabolisme, trong khi những đa đường polysaccharides phục vụ cho việc tồn trử năng lượng énergievà có thể hành động như những thành phần cấu trúc.
Ngoài ra, nó đã cho thấy rằng nó có những hiệu quả lợi ích khác trên sức khỏe, nhất là :
- những hiệu quả tiền sinh học prébiotique của nó,
- và hoạt động chống oxy hóa antioxydante,
- hoặc chống viêm anti-inflammatoirecủa chúng.
▪ Thạch Agar :
Một chất keo dính háo nước colloïdale hydrophile được làm khô của những trích xuất khác nhau của những loài Hồng tảo algues rouges.
▪ Chất làm đông đặc gélatineux, sulfaté polysaccharide, trích xuất chủ yếu từ Gelidium cartilagineum, Gracilaria confervoides và những loài có liên quan đến hồng tảo algues rouges (algues);
- nó tan chảy ở nhiệt độ ± 100ºC và đông đặc ở ± 40ºC.
▪ Nó được sử dụng trong những môi trường nuôi cấy vi trùng bactéries và những vi sinh vật khác micro-organismes,
Thạch Gélose trong vi sinh học microbiologique là một môi trường thường được sử dụng để cấy nuôi :
- những vi trùng bactérienne,
- và nấm fongique,
bởi vì :
- những chất dinh dưởng nutriments,
- những thuốc kháng sinh antibiotiques,
- những muối sels,
- và những chất ức chế
được đưa dễ dàng vào trong môi trường,
- trong việc chế tạo nhũ tương émulsions
và như một môi trường trong những quá trình như là :
- khuếch tán miễn nhiễm immunodiffusion,
- và điện di électrophorèse.
Đặc tính trị liệu :
▪ Những chất đạm protéines có thể có những hoạt động :
- kháng khuẩn antibactériennes,
- chống oxy hóa antioxydantes,
- kích thích miễn nhiễm immunostimulantes,
- chống huyết khối antithrombotiques,
- và chống viêm anti-inflammatoires;
nó có thể được sử dụng để ngăn ngừa và chữa trị :
- huyết áp cao hypertension,
- bệnh tiểu đường diabète,
- và viêm gan hépatite
trong số những hiệu quả tích cực khác trên cơ quan organisme.
Tất cả những hiệu quả thúc đẩy cho sức khỏe này làm cho những hợp chất này có một mối liên quan lớn như :
- một thực phẩm dinh dưởng nutraceutiques.
Những phân tích của tổng số những chất đạm protéines totales trong những tảo algues thường được thực hiện để mà tìm kiếm những nguồn bổ sung chất đạm protéines mới.
Ở những loài của giống Racilaria, hàm lượng chất đạm protéinesđược tìm thấy dao động từ 5,6% đến 30%
▪ Do dung lượng của nó, agar sản phẩm của rong Rau câu Gracilaria, cũng được sử dụng như thuốc để :
- thúc đẩy nhu động ruột péristaltisme,
- và làm giảm táo bón constipation.
được sử dụng như :
- thuốc nhuận trường với số lượng lớn laxatif en vrac,
bởi vì nó rất háu nước hydrophile.
▪ Thạch gélose cũng được sử dụng như chất nhũ hóa ( chuyển hóa sữa ) émulsifianttrong những thức phẩm; nó không thể tiêu hóa bởi những con người.
▪ Bệnh tiểu đường Diabète, bệnh vàng da jaunisse :
làm thế nào sử dụng thạch agar-agar ?
▪ Ở người trưởng thành (18 tuổi và hơn ) :
◦ Bệnh tiểu đường diabète :
180g/ngày của thạch agar-agar ( thương mại dưới tên Slim Kanten®, Japon) trong bữa ăn tối trong thời gian 4 tuần.
Sự sử dụng nói chung (đường miệng): từ 4 đến 16 g thạch agar-agar, 1 đến 2 lần mỗi ngày trong 250mL nước.
▪ Ở trẻ em (18 ans và ít hơn ) :
◦ Bệnh vàng da jaunisse :
2,6 đến 16 g thạch agar-agar 4 đến 8 lần mỗi ngày trong sữa lait.
Kinh nghiệm và kỹ thuật nuôi trồng :
▪ Rong Rau câu Gracilaria gracilis là một loài tảo kinh tế đáng chú ý cho :
- hàm lượng chất thạch gélose,
- và cho sự sử dụng của nó như thực phẩm hoặc thực phẩm bổ sung cho con người và cho những loài khác nhau của cá poissons và những loài động vật biển có vỏ khác fruits de mer.
Sự sử dụng như nguyên liệu thô bởi công nghệ dược phẩm industrie médicale, nuôi trồng với mục đích thương mại được diễn ra trong nhiều nước.
Nhiều tác giả đã nghiên cứu sinh học biologie, sự tăng trưởng croissance, cấy nuôi culture và những ứng dụng có thể của Cây này algue.
Tuy nhiên, bên cạnh agar, Rong Rau câu Gracilaria gracilis đại diện một nguồn của nhiều sản phẩm tự nhiên lợi ích khác.
Francavilla và al. đã định nghĩa như « một nguồn sản phẩm đa năng »; thật vậy, nó đã được đặc trưng hóa những hợp chất khác nhau có thể trích xuất từ nó, như là :
▪ chất béo lipidesvà acides béo acides gras
▪ stérols
▪ protéines
▪ phycobiliprotéines
▪ phénols
▪ glucides
Những thành phần, như :
- R-phycoérythrine,
- acide arachidonique (PUFA-6),
- những chất đạm protéines,
- và những đường glucides,
đã được phát hiện với một nồng độ cao hơn vào mùa đông, trong khi ở mùa hè người ta đã xác định nồng độ cao nhất của tổng số phénols, bên cạnh một hoạt động lớn :
- chống oxy hóa anti-oxydante,
- và hoạt động truy tìm gốc tự do radical scavenging.
▪ Theo nghiên cứu này và những nghiên cứu sơ bộ tương tự khác, Rong Rau câu Gracilaria gracilis có thể được xem như an toàn một nguồn quan trọng cho những ứng dụng :
- công nghệ sinh học biotechnologiques,
- thực phẩm dinh dưởng nutraceutiques,
- và dược phẩm pharmaceutiques.
Tuy nhiên, Rong Rau câu Gracilaria gracilis cơ bản được khai thác như một nguồn thạch agar.
▪ Kết quả, và do nhu cầu của Rong biển agar càng ngày càng tăng, những quần thể tự nhiên của Rong này nhanh chóng cạn kiệt.
Điều đáng chú ý rằng, trong nhiều thế kỷ, những sinh lượng biomasses của rong biển đã được lấy lại duy nhất từ nền tảo tự nhiên.
Để bảo tồn những nguồn tự nhiên đồng thời đưa vào một nguồn mới, những trại nuôi trồng rong biển algues đã được phát triển.
Tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, sự sinh sản thực vật dễ dàng và sự phân bố của Rong Rau câu Gracilaria gracilis khác đã được thúc đẩy sự khởi đầu của sự nuôi trồng Rong biển algues này.
Thật vậy, nuôi trồng những rong biển đã được thực hiện thông qua một loạt những phương pháp, gia tăng một cách bất thường những nguyên liệu thô để sản xuất ra thạch agar.
Ngày nay, hơn 60% trọng tải thế giới của loài rong biển có agar thuộc loại hồng tảo agarophytesbao gồm Rong Rau câu Gracilaria, hiện được nuôi trồng với một quy mô lớn ở Chili, trong Tàu, ở Đài Loan Taiwan và trong những nước khác.
Đối với những loài khác của giống Rong Rau câu Gracilaria, «thẩm định» của những phương pháp nuôi trồng đã được xác định rõ.
Trái lại, sự nuôi trồng Rong Rau câu Gracilaria gracilis là chủ đề của nhiều nghiên cứu và thí nghiệm bởi vì nó còn rất nhiều vần đề cần hiểu biết để cải thiện năng xuất productivité và sản lượng rendement của sinh khối biomasse.
▪ Phương pháp nuôi trổng :
Những kỷ thuật nuôi trồng đã được phát triển để nuôi trồng những Rong biển algues, không chỉ như :
- một sự lựa chọn kinh tế,
- nhưng cũng như giải pháp thay thế môi trường sinh thái khả thi để bảo tồn những nguồn tự nhiên.
Những rong Rau câu Gracilaria đã được trồng thành công trên với một quy mô thương mại, đặc biệt ở Đông Nam Á Asie du Sud-Est và trong Nam Mỹ Amérique du Sud.
Những kỹ thuật khác nhau được sử dụng để nuôi trồng tảo Gracilaria, nhất là những nuôi trồng ở đáy, bè radeau, dây thừng pieu và hồ ao bassin.
Phương pháp thứ hai này có thể được chia thành độc canh monoculture hoặc đa canh polyculturevới những loài tôm crevettes và những loài khác.
▪ Nuôi trồng đáy :
Đây là phương pháp đầu tiên được sử dụng để cấy nuôi rong algues, bao gồm sự gắn trực tiếp những tản vào trong đáy cát bằng cách dùng những ống nhựa plastique, để neo móc những tảo vào đáy biển mer.
Tất cả những kỹ thuật dựa trên khả năng của rong Gracilaria để phát triễn một hệ thống của tản thalles ngầm dưới đất, móc những tảo vào đáy mềm.
Sau quá trình trồng những tầng đất được duy trì bởi sự tăng trưởng thực vật từ hệ thống tản thalles ngầm dưới đất, có thể tồn tại chôn dưới đất trong nhiều tháng.
▪ Phương pháp khuông :
hệ thống này được cấu thành khung khối bằng kim loại được xây dựng và cài đặt dưới nước trong một vùng nền đáy cát. Nó đã được thử nghiệm bởi Dural và al., không kết quả đáng khích lệ.
▪ Phương pháp bè nổi : những khung hình vuông ( những vật liệu tự nhiên khác nhau ) cấu trúc được sử dụng để nuôi trồng trong môi trường nước.
Những bè chứa nhiều đường dây thừng song song khác nhau trong đó những mảnh thực vật của tảnthalles thực vật gắn liền vào.
Gia tăng sinh khối biomasse của nước biển, bằng cách sử dụng phương pháp này, đã được thử nghiệm bởi Ganesan và al. và Sanfilippo và al., cho những loài khác nhau của giống Gracilaria, bao gồm Rong Rau câu Gracilaria gracilis.
Ganesan và al. được báo cáo kết quả tốt cho rong Rau câu Gracilaria edulis trong nuôi trồng, trong khi cùng phương pháp tương tự, thử nghiệm bởi Sanfilippo và al., không cho thấy kết quả so sánh với Rong Rau câu Gracilaria gracilis.
Bởi lý do này, Capillo và al. đã đề xuất một sự tiếp cận sáng tạo để nuôi trồng Rong Rau câu Gracilaria gracilis, bằng cách thử nghiệm phương pháp của chúng trong một đầm địa trung hải lagune méditerranéenne (lagune de Ganzirri, Sicile, Italie).
Phương pháp «Reste» (tên bởi những tác giả) bao gồm những lưới nylon, giống hệt những lưới để nuôi cấy những con sò chem chép moules, trong đó những tản thallesđã được chèn vào với sự giúp đỏ bởi một ống bằng nhựa PVC để giữ lưới mở ra, và một cái khác như một trục ống thụt pistonđể đẩy rong algues vào bên trong của lưới.
Những kết quả của nghiên cứu nầy cho thấy một sự gia tăng của trọng lượng tươi của 952% chỉ trong 72 ngày, xác định phương pháp nuôi trồng nầy như là hiệu xuất tốt nhất để nuôi trồng Rong Rau câu Gracilaria gracilis.
Nghiên cứu :
● Sự tái sinh toàn bộ Cây régénération de plantes entières từ nguyên sinh chất protoplastes của giống Racilaria gracilis (Gracilariales, Rhodophyta)
Những bài viết này báo cáo sự tái sinh thành công đầu tiên régénération của cây nguyên từ những Rong Rau câu Racilaria gracilis (Stackhouse) Steentoft, Irvine và Farnham.
Những nguyên sinh chất protoplastes đã được phân lập và làm tinh khiết bằng cách sử dụng quy trình tối ưu trước đó.
Những nguyên sinh chất protoplastes với những vách tế bào tái tạo cellulaires régénérées chia nhỏ thành hai (2) để tạo thành những khối tế bào giống như những cục chai callosités, cũng như cho thấy sự hiện diện những sợikhông đồng đều.
Sự tăng trưởng của những chồi từ những khối cuc chai callus có liên quan đến một sự thay đổi riêng biệt của cường độ màu tại điểm tăng trưởng.
Cuối cùng, những Cây nguyên đã được tái sinh régénéréestừ những khối tế bào giống nhau với những khối chai cals, với những tổng số sản lượng khoảng từ 2 đến 4 cây nguyên cho 104nguyên sinh chất protoplastes gieo hạt.
Hai mô hình tái sinh régénération riêng biệt đã được quan sát.
◦ Trong trường hợp đầu tiên, những nguyên sinh chất protoplastes được tái sinh chậm để sản xuất những thực vật giống như Cây mẹ, hiện diện những tản thallesmỏng và phân nhánh.
Những mức độ tăng trưởng của những rong biển tái sinh algues régénérées là tương tự như Rong Rau câu Gracilaria gracilis loại hoang dại được cấy nuôi trong cùng điều kiện với 115 g của những rong biển cấy nuôi từ 15 cây tái sinh riêng lẻ trong 1 năm.
◦ Trong trường hợp thứ hai, những nguyên sinh chất protoplastes được tái sinh nhanh chóng để sản xuất ra những thực vật nhỏ với những tản dầy đặc thalles épais, không phân nhánh và thời gian sống có giới hạn.
Những kết quả này cung cấp một nền tảng quan trọng để điều chỉnh một hệ thống nuôi cấy mô culture tissulaire thành công cho Rong Rau câu Gracilaria gracilis.
● Nghiên cứu phản ứng của chất đạm protéine biểu hiện trong tế bào rong proteome của Gracilaria gracilis (Gracilariales, Rhodophyta) với sự giới hạn đạm nitơ azote
Đạm nitơ vô cơ azote inorganique đã được xác định như là yếu tố dinh dưởng chánh nutritionnel giới hạn sự tăng trưởng của những quần thể của Rong Rau câu Gracilaria gracilis trong Nam phi Afrique du Sud.
Mặc dù những cơ chế sinh lý physiologiques được thực hiện bởi Rong Rau câu Gracilaria gracilis để thích ứng với những môi trường với hàm lượng nitơ thấp azote đã được nghiên cứu, người ta ít được biết về những cơ chế phân tử mécanismes moléculaires của những thích ứng adaptationsnày.
Nghiên cứu này cung cấp nghiên cứu đầu tiên của những sự thay đổi của những chất đạm biểu hiện trong tế bào protéome của Rong Rau câu Gracilaria gracilis trong phản ứng với sự giới hạn nitơ azote và phục hồi về sau.
Một phương pháp tiếp cận toàn bộ chất đạm protéine biểu hiện trong tế bào rong protéome khác nhau bằng cách sử dụng :
- điện di électrophorèsetrên chất đông gel hai chiều bidimensionnelle
- và sắc ký lỏng chromatographie en phase liquide - quang phổ khối lượng spectrométriede masse song song.
được sử dụng để nghiên cứu những sự thay đổi của chất đạm protéine biểu hiện trong tế bào protéomecủa Rong Rau câu Gracilaria gracilis trong phản ứng với sự giới hạn và phục hồi của nitơ azote.
- phân hủy glucose glycolyse,
- quang tổng hợp photosynthèse,
- tổng hợp ATP,
- chuyển hóa chất biến dưởng métabolisme của galactose,
- quá trình vật lý trong đó một polypeptide gắp nếp trong cấu trúc 3 chiều repliement des protéines,
- và sinh tổng hợp biosynthèse,
- chất chuyển hóa biến dưởng nitơ métabolisme de l'azote,
- và tu bổ remodelagexương sợi trong tế bào chất cytosquelette.
Việc xác định của những chất đạm protéinesvà những đường chính liên quan đến phản ứng với sự căn thẳng với nitơ stress azoté của Rong Rau câu Gracilaria gracilis cung cấp sự hiểu biết tốt hơn những phản ứng của protéine của Rong Rau câu Gracilaria gracilis với những mức độ giới hạn khác nhau của nitơ azote và là bước đầu tiên của việc xác định sự đánh dấu sinh học biomarqueurscho phép theo dỏi tình trạng thành phần chất nitơ statut azoté của sự nuôi trồng quần thể Rong rau câu Gracilaria gracilis.
● Hồng tảo Gracilaria gracilis như một nguồn của sự sản phẩm đa dụng :
Trong những năm gần đây, những rong biển algues đã dấy lên một sự quan tâm trong nghiên cứu những loại thuốc mới và cho thấy là một nguồn thiết yếu của hợp chất tự nhiên hoạt tính sinh học bioactifsvà nguyên liệu sinh học biomatériaux.
Trong hiện diện nghiên cứu, thành phần sinh hóa biochimique của Hồng tảo Rong Rau câu Gracilaria gracilis, đã được thu hoạch theo mùa trong những đầm của Lesina (phía nam biển Adriatique, Lesina, Italie), đã được phân tích với những kỹ thuật phân tích tiên tiến như là :
- sắc ký khí chromatographie en phase gazeuse kết hợp với quang phổ khối lượng spectrométrie de masse và kiểm tra quang phổ spectrophotométriques.
Đặc biệt, phân tích của :
- những chất béo lipidescủa những chất béo acides gras,
- những stérols,
- những chất đạm protéines,
- những phycobiliprotéines,
- và những đường glucides cũng như hàm lượng chất phénol, hoạt động chống oxy hóa anti-oxydante và chống gốc tự do anti-radicalaire đã được thực hiện.
Vào mùa đông, những trích xuất của Rong Rau câu Gracilaria gracilis, người ta quan sát một hàm lượng cao R-phycoérythrine , kết hợp với sản phẩm có giá trị khác, như là :
- acide arachidonique (PUFA-6),
- những chất đạm protéines,
- và những đường glucides.
Những hoạt động chống oxy hóa anti-oxydantesvà chống gốc tự do anti-radicalaires cao cũng được phát hiện trong những trích xuất mùa hè của rong biển algues, cũng như hàm lượng cao của tổng số chất phénols.
Tóm lại, nghiên cứu này chỉ ra sự sử dụng có thể của Rong Rau câu Gracilaria gracilis như một nguồn sản phẩm đa dạng cho những ứng dụng :
- công nghệ sinh học biotechnologiques,
- thực phẩm dinh dưởng nutraceutiques,
- và dược phẩm pharmaceutiques,
mặc dù có nhiều nghiên cứu là cần thiết để :
- tách riêng,
- làm tinh khiết,
- và đặc trưng của những hoạt tính sinh học bioactifs.
Ứng dụng :
● Thạch Agar :
▪ Thành phần thạch agar là :
- một hydrocolloïde d'algue (là một hợp chất hữu cơ hòa tan trong nước, hình thành một chất keo phân tán có độ nhớt cao, được sử dụng trong y học như một băng gạc tự nhiên ),
- hoặc phycocolloïde, được sử dụng từ lâu như chất làm đông đặc gélifiant, thêm vào trong thực phẩm để làm đặc và ỗn định.
Thạch agar được phát hiện ở Nhật Bản Japon vào giữa thế kỷ XVIII ème, 200 năm trước khi được nhập vào trong những nước Phương Tây occidentaux.
◦ Đường đa polysaccharide này, có giá trị kinh tế lớn, ngày nay được sử dụng như yếu tố làm đông đặc tự nhiên gélifiant naturel trong những thực phẩm, những sản phẩm dược phẩm pharmaceutiques, những ứng dụng công nghiệp và trong nhiều lãnh vực khác.
▪ Ở Nhật Bản Japon, người ta gọi là «kanten», có nghĩa là «thời tiết lạnh temps froid», đề cập đến những phương pháp sản xuất truyền thống của nguyên liệu này trong mùa đông hiver.
Thạch agar là một gia đình của đường đa polysaccharides công thức thẳng của galactanes thu thập được từ những vách thành của những tế bào hồng tảo algues rouges,
◦ đây là một chất trùng hợp ( đồng phân dị lượng ) sinh học biopolymère được xây dựng trên một mô hình lập đi lập lại của đường disaccharidique ( chứa 2 monosaccharide ) đơn vị của 3 nối β-D-galactose (G) và 4 nối với dư lượng 3,6-anhydro-α-1-galactose (AG), với sự hình thành có thể của sulfate, méthoxyle và / hoặc pyruvate ở những vị trí khác nhau của chuổi đa đường polysaccharidique.
Những dư lượng đầy được hiện diện trên những chuổi đa đường polysaccharidique, những nhóm thay thế thường xuyên nhất là :
- những esters de sulfate,
- và những nhóm pyruvate-cétal.
Những đặc tính của chất đông gel phụ thuộc nhiều vào số lượng và vi trí của những nhóm sulfate cũng như số lượng của phần đoạn 3,6-anhydrogalactose của phycocolloïde.
● Sở đánh bắt ngư nghiệp và nuôi trồng thủy sản aquaculture của Tổ chức lương nông Quốc tế của Liên Hiệp Quốc Organisation des Nations Unies pour l'alimentation et l'agriculture (FAO) đã ghi nhận những đặc tính quan trọng nhất của agartrong năm 1987, như sau :
▪ Sức mạnh lớn làm đông đặc gélifiant trong môi trường nước nó cho phép hình thành những chất đông gels có sức đề kháng cao hơn plus résistants(mạnh hơn) so với bất kỳ những tác nhân lảm đông đặc gélifiant khác, có cùng điều kiện như nhau.
▪ Dung dịch trong nước đơn giản này có sức mạnh làm đông đặc gélifiant. Nó không cần thiết thêm những chất kích hoạt để tạo ra một sự đông đặc gélification, như là potassium K (hoặc những chất đạm protéines cần thiết với những carraghénanes) hoặc calcium Ca ( hoặc những ion cation hóa trị 2 khác divalents, như là cần thiết với những alginates).
Những nồng độ của đường cao hoặc một môi trường acide (như là cần thiết với những chất pectines) là không cần thiết.
▪ Nó có thể được sử dụng trong một phạm vi rộng của độ kiềm pH từ 5 đến 8 và trong một số nhất định trường hợp vượt ngoài giới hạn này.
▪ Nó đề kháng rất tốt với những xử lý nhiệt độ thermiques, thậm chí cao hơn 100 ° C, điều này cho phép sử dụng trong sự khử trùng stérilisation.
▪ Một dung dịch chất đông gel trong nước ở 1,5% giữa 32 và 43 ° C và không tan chảy dưới 85 ° C.
Đây là một đặc tính duy nhất của agar, được so sánh với những tác nhân làm đông đặc gélifiants khác.
▪ Thạch agar cho những chất giống đông gelskhông hương vị và không cần thiết phải thêm ion dương cations với hương vị mạnh (potassium K hoặc calcium Ca), nó có thể được sử dụng không vấn đề để làm đông đặc gélifiernhững sản phẩm thực phẩm produits alimentaires với hương vị dịu ngọt.
▪ Nó đồng hóa và cải thiện những hương vị arôme của những sản phẩm khi được pha trộn với nó và nó hành động như một chất cố định hương thơm cho phép nó định hình lâu dài fixation à long terme.
▪ Chất đông gel của nó có một tính đảo ngược réversibilité rất tốt cho phép nó lập đi lập lại đông và nóng chảy nhiều lần mà không mất đi những đặc tính nguồn gốc ban đầu.
▪ Người ta có thể thu được những chất đông gels trông suốt có thể dễ dàng nhuộm màu và có thể thu được chỉ số khúc xạ và cũng có thể dễ dàng gia tăng bằng cách thêm vào đường sucre, glucose, glycérine, v…v… tạo cho chúng có độ bóng hấp dẫn.
▪ Thạch agar rất cố định, không gây ra một kết tủa nào trong sự hiện diện của một số nhất định ion dương cations, trái với chất alginates trong tảo nâu có chứa calcium Ca.
Những đặc tính làm đông đặc gélifiantes của thạch agar là nguồn gốc của nhiều ứng dụng của nó, nó có một độ bền cao nhất của thạch agartự nhiên của bất kỳ những yếu tố làm đông đặc gélifiants nào.
▪ Ly trích thạch Agar :
Hiện có nhiều dự thảo ban đầu để trích xuất thạch agar. Tuy nhiên, tất cả đều xuất phát từ một cơ bản chung.
Trích xuất đầu tiên của thạch agar đã được thực hiện một cách vô tình ngẩu nhiên.
Thật vậy, theo một truyền thuyết nhật bản, phương pháp chế tạo lúc ban đầu đã được phát hiện vào một mùa đông năm 1658, khi một sỉ quan người Nhật đến một quán trọ nhỏ.
Người chủ quán aubergiste, Minoya Tarozaemon, đã cung cấp một bữa ăn tối, một món ăn rong biển truyền thống algues traditionnelle, được chuẩn bị bằng cách nấu những rong biển algues Gelidium với nước.
Sau bữa ăn tối, người chủ quán vứt đổ những những thức ăn dư thừa chất đông ra bên ngoài trời.
Chất đông được đông đặc thành đá trong thời gian ban đêm sau đó, người ta làm tan băng và phơi khô dưới nắng mặt trời, để lại một dư lượng khô màu trắng trông đục.
◦ Khi những thứ này được đun sôi trong nước và để nguội, nó tạo ra một chất đông trông đục hơn lúc đầu của nó và do đó, phương pháp trích xuất và làm tinh khiết của thạch agar đã được khám phá một cách ngẩu nhiên.
Một giao thức chung protocole général, từ nhiều thử nghiệm và nghiên cứu mang lại được tiến hành trong suốt nhiều năm, bao gồm nhiều giai đoạn có thể dưới dạng biểu đồ như sau :
- thu hoạch, sấy khô những rong biển, tiền xử lý ( quá trình alcalin), trích xuất, lọc, làm đông đặc gélification, làm trắng, rửa sạch, làm đóng băng / tan băng, rửa sạch, sấy khô, nghiền nát và thu được sản phẩm cuối cùng.
◦ Việc thu hoạch, tùy thuộc vào sinh khối tối đa biomasse maximalesản xuất, được thực hiện trong những thời kỳ khác nhau trong năm.
Những rong biển từ những nền móng tự nhiên và những những cánh đồng nuôi trồng, chủ yếu vào mùa xuân và mùa hè.
Sau khi thu thập, những rong biển có thể được sấy khô hoặc bằng nắng mặt trời hoặc bằng một máy sấy.
Liên tiếp, những rong biển được xử lý trước với những chất kiềm alcalis(được sử dụng duy nhất cho những rong biển có chứa thạch agar agarophytes của giống Rong rau câu Gracilaria).
◦ Tiền xử lý bao gồm sự sử dụng khác nhau của những nồng độ của dung dịch hydroxyde de sodium, chuyển đổi L-galactose-6-sulfate thành 3,6-anhydro-L-galactose.
Xử lý này, không phải lúc nào cũng được sử dụng, ảnh hưởng cho cả 2 năng xuất và phẩm chất tốt cứng dai của thạch, kết cấu của thạch vững chắc, năng xuất của thạch thấp.
▪ Trích xuất thường đuợc tiến hành trong nước nóng (2-4 giờ) ở 95-100 ° C, dưới áp suất pression.
Một sự lọc nóng để loại bỏ những những vật liệu không tan trong nước. Dung dịch sau đó được làm nguội ở nhiệt độ trong phòng để cho phép quá trình của sự đông đặc gélification.
Chất đông gel được hình thành từ từ đông lạnh để phát triển thành những tinh thể lớn gros cristaux của nước đá glace, kế đó làm tan đá để loại bỏ lượng nước dư thừa.
Quá trình nầy gọi là đông băng / làm tan băng và là một phương pháp được sử dụng nhiều nhất để khử nưóc chất đông gel.
◦ Sự ép áp xuất cũng được sử dụng để gia tăng dung lượng của nước ép, cô đọng thạch agar đến 10-12%.
Quá trính ép áp xuất sử dụng một cách để trục xuất chất lỏng synérèse, khử nước chất đông gel.
Một ép áp xuất cơ học của 5-10 kg / cm2 được áp dụng dần dần trên chất đông gel.
▪ Những kết quả của ép áp xuất trên chất đông gel có hiệu quả hơn quá trình làm đóng băng congélation / làm tan băng décongélation và cho những bánh đậm đặc hơn, có thể được sấy khô hiệu quả hơn.
Sau khi cô đặc, những dảy thạch agar hoặc những vảy nhỏ thạch flocons d'agar được sấy khô với không khí nóng và nghiền nát với kích thước mạng lưới thích hợp, thường từ 80 đến 100 mesh (100 từ 150 µm).
Thạch agar được bán trong thương mại cho cả 2 dảy dài và dạng bột, tùy thuộc của sự ứng dụng cuối cùng của sản phẩm.
Thậm chí phương pháp truyền thống trích xuất bởi thạch agar cho một sản lượng tốt, nhiều tác giả đã thử qua trong những năm qua đã cải thiện bằng cách thử nghiệm những sửa đổi khác nhau của giao thức chung protocole général với so sánh những kết quả tốt.
Một trong những tiếp cận mới nhất để trích xuất của những polysaccharides bao gồm việc sử dụng những lò vi sóng micro-ondes, như theo báo cáo Francavilla và al.
Trong nghiên cứu tìm kiếm này, nó đã cho hthấy rằng giao thức của trích xuất được đề xuất có hiệu quả nhất và ít nhàm chán hơn so với giao thức trích xuất cổ điển.
Thực phẩm và biến chế :
Rong biển algue này được nuôi trồng để trích xuất lấy thạch agar-agar, nó cho phép sản xuất ra hydrocolloïde và như một phân bón cho việc nuôi trồng thủy sản fruits de mer.
▪ Làm thế nào để sử dụng tốt thạch agar-agar ?
Thạch agar-agar được có sẵn dưới dạng bột poudre, những mảnh nhỏ flocons, những thanh hoặc những sợi.
Để mà sử dụng tốt, người ta làm tan chảy trong nước đun sôi và làm nguội mát, một chất đông sẽ được hình thành.
Như vậy, người ta có thể sử dụng cho bánh kẹo thạch confection de gelées, mứt confitures, kem crèmes, mousses, sorbets, kem lạnh crème glacée, bánh poudings, terrines và bánh kẹo confiseries.
▪ Thạch agar-agar có một sức mạnh làm đông đặc gélifianttừ 8 đến 10 lần hơn chất gélatine, vậy nó có thể khéo thay thế nó, nhưng mà cẫn thận giảm liều lượng.
Ở những người ăn chay végétariens, agar-agar thay thế chất gélatine có nguồn gốc của động vật .
Điểm 4.6/5 dựa vào 87 đánh giá