Thứ Năm, 10 tháng 10, 2019

Nấm tán giết ruồi - Amanite-tue-mouches

Amanite tue-mouches
Nấm tán giết ruồi
Amanita muscaria (L. : Fr.) Lam..
Amanitaceae
Đại cương :
Nấm tán giết ruồi Amanite tue-mouches Amanita muscaria  hiện diện phong phú từ tháng 8 đến tháng 11 ở những đồng bằng cũng như ở trên núi, ở phía nam cũng như trong miền bắc.
Người ta tìm thấy dưới những cây gỗ cứng (như cây sồi hêtres và đặc biệt cây bạch dương bouleaux) như dưới những Cây có nhựa résineux và thích những đất acides.
Thường được phổ biến bởi những phim ảnh hoạt hình và những truyện tranh, Nấm tán giết ruồi Amanite tue-mouches nầy phải có những mũ nấm màu đỏ với những đốm màu trắng thường được sử dụng như một hình mẫu archétype của nấm.
Nấm không gây chết người Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria nhưng nó vẫn được xem như là một nấm độc hại champignon toxique.
Một đến 3 giờ sau khi ăn nuốt vào, những rối loạn ảo giác hallucinatoiresvà dạ dày gastriques xảy ra.
Những nguyên hoạt chất được tập trung chủ yếu ở những lớp biểu bì màu đỏ cuticule rouge dễ dàng tách ra khỏi mũ nấm.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  phát triển có những một bào tử sporophore có khích thước lớn dễ dàng để xác định. Loài Nấm tán giết ruồi nỗi lên khỏi mặt đất như một quả trứng được bao bọc trong một mô mịn của một lớp màng vạn năng voile universel.
Sự mổ xẻ nấm trong giai đoạn nầy cho thấy một lớp màu vàng dưới tấm màng che, đây là đặc trưng của nó để giúp xác định.
Trong quá trình phát triển, màu đỏ màu đỏ xuất hiện xuyên qua lớp màng bị phá vỡ và những mụn cóc trở nên kém nổi bật hơn, nó không đổi kích thước nhưng dường như hơi co lại bởi so với bề mặt của nạt thịt đỏ.
Mũ nấm, khi trưởng thành đo được từ 8 đến 20 cm đường kính, ban đầu có hình cầu, trở nên lồi lan rộng ra, thay đổi hình dạng để trở nên hình dạng bán cầu, sau đó dần dần trở nên phẳng hơn khi trưởng thành, được bao phủ bởi một lớp biểu bì, màu đỏ đến màu đỏ cam bóng láng. Sau khi trồi lên khỏi mặt đất mủ nấm được bao phủ bởi những mụn trắng có dạng hình kim tự tháp sau đó trở nên vàng nhạt, rìa láng. Đây là vết tích còn lại của một màng bao đa năng, bao phủ bảo vệ mầm non nấm trước khi trồi lên khỏi mặt đất.
▪ Những phiến lames, rời, chặt chẽ, không đều nhau, màu trắng, giống như một dấu vết của bào tử empreinte de spore. Những bào tử hình bầu dục đo được 9-13 x 6,5-9 micromètres, và không phải là amyloïdes, điều nầy có nghĩa là nó không chuyển sang màu xanh dương khi nó áp dụng với thuốc thử Melzer réactif de Melzer.
Chân nấm, từ 5 đến 20 cm cao cho từ 1 đến 2 cm đường kính, và có cấu trúc sợi hơi bở đây là đặc trưng của những nấm lớn.
Lúc đầu ngắn, to và đầy đặn, dài ra dần dần và trở nên rỗng và có thể đo được đến 30 cm, có lông tơ, với những đường vân đồng tâm ở bên dưới, màu trắng nhưng đôi khi có màu vàng, đặc biệt bên dưới vòng và nơi tiếp giáp với củ nạt bulbe
 Bao ở bên dưới chân nâm volve (hoặc củ nạt bulbe) mang những phần dư lại  của màng đa năng voile universel dưới dạng một hoặc 2 vòng đồng tâm. anneaux concentriques. Giữa những vòng nầy và những phiến, những dấu vết của một phần màng ( bao gồm những phiến nấm trong thời gian phát triển ) có dạng của một vòng trắng. Cái nầy trở nên khá rộng và rời rạt theo thời gian.
Vòng Anneau : phong phú, rách nhỏ hoặc xuất hiện những răn to, tồn tại không mất, màu trắng hoặc màu vàng nhạt. Nấm thường không phát ra những mùi khác hơn là mùi đất.
Bộ phận sử dụng :
Thu hoạch và chế biến.
Người ta thu hoạch nấm nầy vào đầu mùa thu, thời điểm nấm phát triển tăng trưởng, người ta cắt thành từng lát và phơi khô dưới ánh nắng mặt trời hoặc trong lò nướng, sau đó người ta nghiền nát thành bột và bảo quản trong lọ đậy kín và để vào nơi khô ráo.
Người ta cũng chế biến một dung dịch trong cồn teinture alcoolique.
Thành phần hóa học và dược chất :
● Đặc tính vật lý và hóa học
Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  có một mùi hơi rõ rệt, một hương vị mặn.
Letellier đã phát hiện ra trong những loài lân cận, một chất đặc biệt được gọi là amanitine, và theo ông, nó nằm trong nguyên chất độc principe vénéneux của loài nầy.
Vấn đề nầy, có độ kiềm chưa chắc chắn, sẽ được tồn tại, kết hợp với nấm nấm kali fungate de potasse, trong những nấm.
(Reveil tìm thấy trong Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria có 3 nguyên chất độc hại principes toxiqueskhác nhau :
▪ 1° một nguyên chất dễ bay hơi, có mùi, tồn tại rất ngắn ngủi thu được bởi sự chưng cất nước distillation aqueuse.
Nước cất nầy có thể được điều chế bằng cách chưng cất 1 phần nấm với 2 phần nước, ba lần, cuối cùng để có kết quả 1 phần nước cất eau distillée.
Nó trong suốt, trung tính, sau khoảng 15 ngày nó trơ ra bất động.
▪ 2° một nguyên chất trích xuất principe extractif, hòa tan trong nước, tiếp cận với chất amanitinecủa Letellier ;
▪ 3" một nguyen chất nhựa résine résineux, hòa tan trong alcool, không tan trong nước khi nó trong dạng nguyên chất, nhưng có thể hòa tan với sự trợ giúp của những chất liệu trích xuất.
● Những chất hóa học.
Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria đại diện cho một thách thức đối với những nhà hóa học, nhà sinh hóa, và những nhà sinh họ. Những mục tiêu là như sau :
◦ (1) sự phát hiện và phương phức hnàh động của những chất có liên quan trong hiệu quả hướng tâm thần psychotrope có khả năng dẫn đến việc sáng tạo ra một thuốc mới.
◦ (2) phân lập và xác nhận hóa học của những sắc tố pigmentstrách nhiệm của màu sắc đặc trưng của mũ nấm, và
◦ (3) phát hiện ra những thành phần bất thường. khác nhau.
Thật ngạc nhiên, phần lớn của những chất được sản xuất có liên quan đến hóa học và sinh học di truyền biogénétiquement, một kiến trúc phân tử moléculaire phổ biến liên kết hầu hết của những cấu trúc (Eugster 1969).
▪ Những độc tố thật sự toxines Mặc dù những thành phần hóa học của những nấm đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, một vài chi tiết vẫn chưa được rõ ràng, nó có liên quan giữa những đặc tính hóa-lý physicochimiques của những thành phần hoạt động và phương thức của sự tiêu thụ.
Chẳng hạn,
◦ Những người Mexicains ăn những thân quả carpophorecủa Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  không lớp biểu bì đã được gở bỏ và cũng đổ bỏ nước nấu (Pe´rez-Silva & Herrera-Suarez 1991).
▪ Chất muscimolacide iboténique có thể là những nguyên chất hoạt động sinh học biologiquement actifs của những loài quan tâm, những những thành phần hoạt động khác bị nghi ngờ.
Nhóm nghiên cứu khác nhau đã thực hiện một sự xác định gần như cùng lúc của sự phân lập và cấu trúc của những thành phần hoạt động (Takemoto & Nakajima 1964c, Bowden & Drysdale 1965, Eugster, Müller và Good 1965, Good, Müller và Eugster 1965).
▪ Những chất là những dẫn xuất của isoxazole:
- acide iboténique 1 (từ «iboten-gu-take», tên Nhật Bản của Nấm Amanita strobiliformis, trước đây được gọi là «premuscimol»; Good và al. 1965, Eugster & Takemoto 1967), phản ứng khử carbon décarboxilationcủa nó mang lại muscimol 2 ; những thành phần của nó chỉ ghi nhận trong những dưới loài sous-espèces Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  và Amanita pantherina (Benedict và al. 1966).
Acide iboténique (panthérine, agarine), tức là acide a-amino-3-hydroxy-5-isoxazoloacétique 1, không màu (tinh thể C5H6N2O4, trọng lượng phân tử 158,11, điểm nóng chảy ( phị điểm ) point de fusion 150-152 ° C), dễ dàng hòa tan trong nước lạnh.
Tất cả nổ lực của sự khử nước déshydratationdẫn đến một sự khử carbon décarboxilationtạo ra một số lượng lớn chất muscimol, điều nầy cho thấy rằng một bữa ăn của những nấm nấu chín, hoặc thậm chí sau khi tiêu hóa trong dạ dày digestion gastrique, sẽ chỉ chứa chất sau và sẽ là yếu tố trách nhiệm gây ra những triệu chứng chánh.
▪ Da biểu bì màu đỏ của mũ nấm và mô tế bào màu vàng bên dưới lớp biểu bì có chứa một số lượng lớn nhất, điều nầy giải thích những thực hành để gở bỏ nó (Catalfomo & Eugster 1970a).
- Muscimol, cụ thể là 5- (aminométhyl) -3-hydroxyisoxazole 2, được phân lập từ Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria, không màu ( tinh thể, C4H6N2O2, trọng lượng phân tử 114,10, điểm nóng chảỵ phị điểm ) 175 x phân hủy ) dễ dàng tan trong nước lạnh (Bowden & Drysdale 1965).
Đồng phân lactame isomère lactame của muscimolkết quả của một sắp xếp hình ảnh photo-réarrangement của những cấu trúc cuối cùng (Goéth và al., 1967) và được sản xuất trong quá trình phân lập.
- Muscazone, cụ thể là acide a-amino-2,3-dihydro-2-oxo-5- oxazoleoacétique 3, không màu ( tinh thể C5H6N2O4, trọng lượng phân tử 158,11, phân hủy ở 190 ° C), cũng như cấu trúc được xác nhận bởi tổng hợp ( Eugster và al 1965, Fritz và al 1965, Reiner và Eugster 1967).
Chất muscazone thể hiện những hoạt động dược lý nhỏ so với những chất trước đó.
- cyclosérine (myxomycine, séromycine, D-4-amino-3-isoxazolidone) là một tác nhân chống bệnh lao antituberculeux, kháng vi khuẩn antimicrobienthể hiện một sườn công thức carbone squelette carboné tương tự như chất muscimol.
Nó được biết là gây ra những hiệu quả trên hệ thống thần kinh trung ương système nerveux central, nhưng với một với một thời gian trễ dài hơn :
- buồn ngủ somnolence,
- nhầm lẫn confusion,
- và hồi hợp nervositéphân biệt những hiệu quả không mong muốn (Mandell & Sande, 1992)
- Những dẫn xuất của thiomuscimol đã được chuẩn bị, nó thể hiện những đặc tính kết nối cực kỳ mạnh, thậm chí có khả năng thay thế GABA từ thụ thể của nó (Melikian và al., 1992).
▪ Những chất hoạt động khác (x) :
- -R-4-hydroxy-pyrrolidone-(2), có cấu trúc liên quan chặc chẻ với acide iboténiquevà với muscimol, đã được tìm thấy ở Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  (Matsumoto và al. 1969a).
Trong khung khổ hóa học nầy chimique được phổ biến trong một số nhất định vi nấm micromycètes ( nấm rất nhỏ phải quan sát dưới kính hiển vi ) ; nó thường thể hiện một hoạt động sinh học mạnh biologique puissante chống lại những vi khuẩn bactéries và những nấm ( chẳng hạn auréothrycine, équisétine).
- Acide tricholomique, một dẫn xuất dihydro có liên quan chặt chẻ với acide iboténique, một acide đã được xác định trong Tricholoma muscarium (Takemoto & Nakajima 1964b) và cấu trúc của nó đã được xác định bởi sự tổng hợp (Iwasaki và al. 1965).
- muscarine từ lâu đã được xem như nguyên hoạt chất của Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  (Schmiedeberg & Koppe 1869, Kołgl và al. 1957, Cox và al. 1958), do một hành động được cho là trên hệ thống thần kinh trung ương système nerveux central.
◦ Sự xuất hiện với một số lượng nhỏ của muscarine, cụ thể tétrahydro-4-hydroxy-N, N, N-5-tétraméthyl-2-furanméthanaminium, (0,0002–0,0003%, fw; chlorure : lăng kính mạnh prismes robustes, phị điểm (điểm nóng chảy) point de fusion180–181 x ( Ko¨gl và al., 1957, Cox và al., 1958) đã được thiết lập ở Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  (Eugster & Schleusener, 1969; Catalfomo và Eugster, 1970a).
▪ Một thành phần hoạt động khác có thể :
- bufoténine(5-hydroxy-N, N-diméthyltryptamine),
đã được đề xuất (Waser 1967), nhưng sự hiện diện của chất gây ảo giác hallucinogènes indoliques như là :
- psilocybine, thường được suy đoán, chưa được xác nhận.
▪ Sắc tố pigments,  Màu sắc tươi của Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  đã thúc đẩy những cuộc điều tra trong nhiều nhóm nghiên cứu, ngày nay, phần lớn những đặc tính cấu trúc của những sắc tố pigmentsđã được làm sáng tỏ (Musso, 1982).
- Muscarufin.
là một thành phần chánh, nó có lẽ là một dẫn xuất giả định putatif của một terphénylquinone (Ko¨gl & Erxleben 1930); nhưng những cố gắng triển khai bởi những nhóm khác nhau để tái tạo những kết quả sớm này đã không thành công (Musso, 1979).
Musso cũng đã đề xuất một cấu trúc khá mới, muscaflavine, cho một sắc tố vàng pigment jaune, kết quả được chứng thực bởi đường sinh tổng hợp biosynthèse bao gồm những phân cắt clivages phân kỳ oxy hóa oxydants divergents trước đó của L-DOPA, của những giai đoạn chu kỳ tạo ra chất muscaflavinecùng với :
- acide bêtalamique, acide stizolobique và acide stizolobique
(Mabry 1967, Saito, Komamine và Senoh 1975, 1976, Saito, Komamine và Hatanaka 1978).
Cấu trúc đã được xác nhận bởi sự tổng hợp (Barth, Kobayashi & Musso 1979, Burger và al. 1981).
▪ Những hợp chất khác nhau, những muscaaurinesI – VII, đã được chứng minh là những sắc tố pigmentstrách nhiệm của màu đỏ-cam đặc trưng của những mũ nấm của nhiều Nấm amanita khác, như là Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  (Do¨pp & Musso, 1973).
Một quá trình sắc ký giấy chromatographiquethanh đẹp cho phép tách riêng của những sắc tố của nó pigments (Do¨pp & Musso 1974). Điều thú vị được ghi nhận rằng những acides iboténique và stizolobique là thiết yếu của những yếu tố thêm vào toàn bộ cấu trúc của những muscaaurines (Do¨pp và al. 1982, Depovere & Moens 1984).
▪ Những chất muscaaurines là những bétalaïnes và cũng từ sự biến đổi của DOPA (Fisher & Dreiding 1972).
Muscapurpurin (màu tím) và muscarubin (nâu đỏ), có những cấu trúc liên quan chặt chẻ với những muscaaurines, đã được phân lập ở Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  (Do¨pp & Musso 1973, Musso 1979).
Dioléine  1,3 17, a-diester de glycérol và acide oléique; đã được xem như hành động chánh thức thu hút loài ruồi của Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  (Muto & Sugawara 1970) (Fig. 12).
▪ Những nấm được biết đến cho sự tích tụ sinh học bioaccumulationkim loại métaux khác nhau. Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  có thể tập trung nguyên tố vanadium đến 200 ppm (30 lần hơn ở những sinh vật sống ).
▪ Phân lập, sự xác định cấu trúc và tổng hợp phức tạp của nguyên tố khoáng vanadium màu xanh dương nhạt, amavadine (Kneifel & Bayer, 1986), đã được xác nhận bởi phương pháp tinh thể học cristallographie(Berry và al., 1999).
Tương tự, những nồng độ cao bất thường của nguyên tố sélénium (17,8 ppm; Watkinson 1964) và kim loại nặng métaux lourds đã được ghi nhận :
- cadmium Cd 13,9, coban Co 2,6, Chrom Cr 1,7, Chì Pb 33,3, thủy ngân Mercure 61,3 và niken Ni 7,5 ppm d.w. (Michelot và al. 1998, Siobud và al. 1999).
▪ Một lectine (APL) đã được phân lập ở Amanita pantherina bởi sắc ký lỏng Chromatographie en phase liquide chất đạm protéine nhanh (FPLC).
Khối lượng phân tử của nó được ước tính 43 kDa và bao gồm 2 đơn vị tương tự nhau (Zhuang và al., 1996).
◦ Un b- (1p6) phân nhánh (1p3) -β-D-glucane (AMASN) đã được phân lập ở Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria .
AM-ASN thể hiện một hoạt động chống ung bướu khối u antitumoralechống lại khối u ác tính sarcome 180 ở chuột (Kiho và al. 1992).
▪ Chất phallolysine, một tán huyết tố hémolysine điển hình tìm thấy ban đầu ở Amanita  phalloides và có khả năng làm ngưng tập agglutiner những hồng huyết cầu, cũng được phát hiện ở Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  (Seeger, Kraus & Wiedmann, 1973).
▪ Trong những thành phần hoạt động khác được tìm thấy ở Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria, bao gồm :
- choline, acétylcholine, bétaïne, muscaridine, một muối triméthylammonium bậc 4 của 6-amino-2,3-dihydroxyhexane, l'hercynine, (x) -R-hydroxy-4-pyrrolidone, uracile, hypoxanthine, xanthine, adénosine, một dẫn xuất carbolinique và bDn-butylglycopyranoside (Kołgl, Salemink & Schuller, 1960).
▪ Sự hiện diện có thể xảy ra ở Nấm tán giết ruồi Amanita muscarina, của :
- amatoxines và phallotoxines,
những độc tố toxines điển hình của Nấm Amanita phalloïdes, lần đầu tiên không kể (Catalfomo và Tyler, 1961).
Tuy nhiên, những phương pháp phát hiện rất nhạy cảm, những thử nghiệm miễn nhiễm phóng xạ radio-immunoessais, những vết của amatoxines (Faulstich & CochetMeilhac, 1976) và những phallotoxines cũng bị nghi ngờ (Larcan, 1979).
● Phương thức hành động của độc tố Toxines :
Hiệu quả «thuốc diệt côn trùng insecticide» Một số lớn những ấn phẩm truyền thống tài liệu tham khảo với những đặc tính thuốc diệt côn trùng insecticides của Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria .
Cuộc điều tra ban đầu đồng thời mô tả một đặc tính không bình thường đối với acide iboténique, "agarin", và những thí nghiệm định tính qualitatives(Nhân tố Amanita B; Takemoto và Nakajima 1964a, Takemoto, Nakajima và Sakuma 1964, Takemoto, Yokobe và Nakajima 1964, Bowden, Drysdale và Mogey 1965) .
Hơn nữa, một tripeptide, panthérine, có khả năng sinh học biologiquenhư vậy đã được tìm thấy trong nấm (Onda, Fukushima & Akagawa 1964).
Tuy nhiên, những thí nghiệm định lượng quantitatives được thực hiện bởi Catalfomo và Eugster (1970a), người đặc tên cho chất này là «pra¨muscimol», cho thấy rằng những loài côn trùng cho thấy rằng những loài côn trùng có 2 cánh diptères là nhạy cảm yếu sensibles với tất cả hành động độc hại toxique bởi sự tiếp xúc hoặc bởi nuốt phải.
Những kết quả này đã được xác định bởi Matile (2000). Một sự sử dụng được coi là của những thành phần của Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria để chống lại những loài ruồi nhà mouches domestiques (Musca domestica) đã được thảo luận trong liên quan đến sự gia tăng quan trọng của sức đề kháng (Petzsch, 1960).
Một tính chất nổi tiến như vậy phải được hợp lý hóa do những tên của nấm ở những quốc gia khác nhau và phát sinh từ truyền thống bằng miệng, của những câu chuyện, những tranh vẽ và truyền thống dân gian folklore.
▪ Hành động trên cơ thể sinh vật sống in vivocủa những độc tố toxines có liên quan đến iboténique
Ngoài những dữ liệu thí nghiệm ở những động vật, nó hiện có vài báo cáo thú y của sự ngộ độc tai nạn intoxications accidentelles ở mèo, với những triệu chứng xảy ra sớm từ 15 đến 30 phút sau khi nuốt phải (Ridgway, 1978).
▪ Một trạng thái phấn khích, kéo dài đến 4 giờ, tiếp theo sau một thời gian ngắn của sự buồn ngủ somnolence. Con vật sau đó trải qua một giấc ngủ sâu và sự phục hồi thường lấy lại trong vòng 24 giớ.
Xem xét sự chẩn đoán, những sự thay đổi về sinh hóa biochimiquesphát triển 30 phút sau khi tiêm vào màng bụng của trích xuất nước của Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria , nấm Amanita pantherina và nấm Amanita rubrovolvata vào trong những chuột đực.
Đây là những sự giãm hoạt tính của acétylcholine estérase, của glycogène gan hépatique, của chất đạm uré máu azote uréique du sang, cũng như sự gia tăng của mức độ đường glucose máu sanguin; những hoạt động của những transaminaseshuyết thanh sériques là không bị ảnh hưởng.
Những giá trị trở lại bình thường trong vòng 6 giờ (Yamahura và al. 1983).
Dữ liệu sau này chứng minh rằng sự ngộ độc intoxicationkhông nghiêm trọng và những cơ quan quan trọng như là gan foie và những thận reins là không bị ảnh hưởng.
Những chức năng dinh dưởng hầu như không bị ảnh hưởng bởi những độc tố toxines.
▪ Một thử nghiệm sinh học biologique đã được thực hiện để kiểm soát tính hiệu quả của những quá trình trích xuất và làm tinh khiết, kéo dài thời gian ngủ ở những chuột sau khi dùng thuốc gây nghiện narcotique với một thời gian tác dụng ngắn hạn (Mùller & Eugster, 1965).
▪ Những nghiên cứu thâm cứu về sau cho thấy rằng liều lượng hoạt động của chất muscimol quản lý bởi đường uống là từ 7,5 đến 10 mg và DL50 là 2,5 mg kgx1 ở chuột souris và 3,5 mg kgx1 ở chuột rat (von Theobald và al. 1968).
Sau khi tiêm vào màng bụng intraperitoneale và quản lý uống chất muscimol (4–8 mg kgx1) và acide iboténique (16 mg kgx1), đường kính của đồng tử pupilles của chuột được mỡ rộng.
▪ Rất có thể, sau khi nuốt và, dịch dạ dày với độ pH thấp thủy phân acide iboténique thành muscimol; sau đó, thành phần hoạt động đi đến não bộ cerveau hoặc được loại bỏ thông qua hệ thống tuần hoàn.
Acide iboténique và chất muscimol đều được tìm thấy trong nước tiểu urine con người sau 1 giờ tiêu thụ, sự quan sát này đã được xác định bằng thực nghiệm trên những chuột (Ott, Preston & Chilton, 1975).
▪ Cũng như, một ưu tiên, một giai đoạn của sự khử acide carbon décarboxylation acide trong đường tiêu hóa dạ dày ruột gastro-intestinal sẽ tạo ra chất muscimol sau đó thâm nhập vào trong hệ thống thần kinh trung ương système nerveux central bởi hệ thống tuần hoàn circulation systémique (Brehm, Hjeds & Krogsgaard-Larsen 1972).
Acide iboténique đã được chứng minh thành phần chánh của Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  và Amanita Pantherina (Lund, 1979). Không có hành động độc hại toxique trực tiếp nào trên những hệ thống  mục tiêu điển hình liên quan trong những sự ngộ độc intoxications bởi những nấm (gan foie, thận reins, chất chuyển hóa biến dưởng thiết yếu métabolisme essentiel) đã được báo cáo (Michelot & Tebbett 1990, Michelot & Toth 1991, Michelot 1992).
Tuy nhiên, những việc tiêm lập đi lập lại của acide iboténique gây ra một sự thay đổi thoáng qua về độ nhạy cảm của những thụ thể GABA (Taira, Uusi-Oukari & Korpi, 1993) và có thể gây ra :
- những tổn thương của não cơ bản trước cerveau antérieur basal,
- phá hủy tỹ lệ phần trăm thấp của tế bào cellules cholinergiques (Harrington & Wenk, 1992). hậu quả trong cơ thể sinh vật sống in vivo sẽ là một kéo dài học tập và sự thiếu hụt trí nhớ đáng kể (Connor, Langlais & Thal, 1991).
Trong trường hợp những loài hữu nhũ trẻ jeunes mammifères, chất muscimol cũng làm xáo trộn sự phát triển của hệ thống noradrénaline vùng dưới đồi hypothalamique (Taira & Smith 1993).
▪ Phương thức  hành động sinh hóa biochimique của những độc tố toxines liên quan đến chất ibotène acide iboténique, và đặc biệt là chất muscimol, phải được xem như là chất trách nhiệm của hành động hướng tâm thần psychotrope của Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria .
Những hiệu quả của cả 2 chất là tương tự nhưng không giống nhau với hiệu quả của nấm trong toàn bộ.
Acide iboténiquemuscimol là một phần của một nhóm alcaloïdes riêng biệt, những acides aminés kích thích.
Nhóm nầy bao gồm : acide kaïnique, acide domoïque, acide tricholomique, acide quisqualique, yunaïne và pétalonine; tất cả những acides aminés tự nhiên (Takemoto 1978, McGeer & McGeer 1981, 1983).
Acide iboténiquemuscimol tương ứng là những dẫn xuất của acide glutamique và của acide gamma-aminobutyrique (GABA) với hình dạng hạn chế.
Do đó, nó hành động như những chất dẫn truyền thần kinh neurotransmetteurs liên quan  đến việc kiểm soát hoạt động của những tế bào thần kinh trong hệ thống thấn kinh trung ương système nerveux central của những loài hữu nhũ mammifères, hành động trên những tế bào thần kinh gai neurones spinaux (Curtis, 1993). Lodge & McLennan 1979).
Người ta biết rằng acide iboténique hành động trên những thụ thể của acide glutamique và chất muscimol trên những thụ thể GABA của loài ốc sên Helix aspersa (Walker, Woodruff & Kerkut 1971).
Tuy nhiên, không giống với acide glutamique và với GABA, acide iboténiquemuscimol vượt qua hàng rào máu não hémato-encéphalique(Olpe & Koella 1978), rất có thể là do sự vận chuyển tích cực, làm giảm những chất dẫn truyền thần kinh neurotransmetteursnội sinh endogènes và gây ra những rối loạn não cérébraux.
▪ Acide glutamique là một chất dẫn truyền thần kinh neurotransmetteur chất kích thích chánh excitateur majeur trong hệ thống thần kinh trung ương système nerveux central của những loài hũu nhủ mammifères và những thụ thể của nó là có liên quan trong những rối loạn thần kinh neurologiques như là :
- chứng động kinh épilepsie,
- và bệnh Huntington.
Những thụ thể glutamate chất ức chế (IGluR) tạo thành một nhóm những chất đạm protéinescủa những kênh ioniques tương đương với thụ thể glycine và GABA.
Acide iboténique hành động trên những IgluRs (Cleland 1996). Xem như năng lượng tối thiểu của mono-anion, acide iboténique hiển thị một cấu trúc tương tự  cứng của L-glutamate.
Do đó, nó thể hiện hình dạng phù hợp của những chất chủ vận agonistes của glutamate xác nhận bởi lý thuyết của những quỷ đạo phân tử orbitales moléculaires (Borthwick & Steward, 1976).
Đặc tính trị liệu :
Amanita muscaria - medicinal properties
Hiệu quả chữa bệnh của những nấm được biết từ thời cổ đại Antiquité: nó chữa trị :
- những bệnh của những khớp xương articulations,
nó khó để chữa lành bệnh những vết thương loét plaies, những bệnh ngoài da maladies de la peau.
Thật vậy, những nghiên cứu khoa học đã xác nhận trong webcam! Tìm thấy nhiều chất có hiệu quả chữa trị rõ ràng.
Ví dụ ,
◦ một sắc tố muskarufin pigment màu vàng-đỏ có một hiệu quả :
- kháng sinh antibiotique,
- và chống khối u anti-tumeur,
◦ Chất muscarine alcaloïde là :
- một thuốc giãm đau tự nhiên analgésique naturel
có khả năng giãm đau analgésique được tìm thấy trong webcam!
Những chất  
◦ chống dị ứng antihistaminiques tự nhiên,
tức là những chất loại bỏ những phản ứng dị ứng allergiques
Và quan trọng nhất.
◦ những chất ức chế bệnh sài teigne,
ngứa truyền nhiễm gây ra những mảng tròn trên da do nhiễm nấm trên da infection fongique de la peau.
▪ (Fausse oronge Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria là rất độc très-vénéneuse, và nguy hiễm hơn ở chỗ có mùi hôi làm cho buồn nôn odeur nauséabonde, một hương vị chát cay âcre và xua đuổi của những loài nấm có hại khác chỉ ra phẫm chất bại hoại có hại délétères của chúng, trong khi ở đây, theo sự biểu hiện đẹp như tranh của Bertillon, những bảo vệ điên khùng nầy garde-fous đang thiếu.
Cường độ hành động bổ dưởng là lớn hơn khi nấm trưởng thành già hơn; những bộ phần khác nhau của nấm, chân nấm và mủ nấm là hoạt động mạnh nhất; những phiến nấm chỉ được xếp vào hàng thứ 3 (Reveil).
Những khác biệt nầy, về tuổi và với những bộ phận sử dụng, cùng với tình huống của sự chế biến v…v… , có thể giải thích những trường hợp an toàn được công bố bởi Bulliard, Mérat và những người khác.
● Hành động trên những động vật .
Nấm fausse oronge Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  là độc đối với những loài động vật hjữu nhũ mammifères, những loài chim oiseaux, những loài ếch grenouilles, loài rắn serpents và những cá poissons ; những loài ốc limaces khởi đầu không nguy hiểm.
Người ta bảo đảm rằng nước nấu sắc trắng sữa décoction laiteuse giết chết những loài ruồi tue les mouches.
Cho 2 gr. nạt thịt của Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  ở những loài chim sẻ moineauxsẽ chết trong một khoảng thời gian khác nhau giữa 39 và 62 phút.
◦ Những loài chó và mèo chết, theo Bulliard, nếu chúng đã ăn một số lượng nấm nhất định, trong 6 đến 8 giờ.
Trong hầu hết những trường hợp, người ta quan sát một sự kích ứng dữ dội irritation violente của những đường tiêu hóa voies digestives và đồng thời của những hiện tượng gây nghiện phénomènes de narcotisme ; nhưng :
- đôi khi những triệu chứng đầu tiên chiếm ưu thế,
- đôi khi triệu chứng nầy là thứ hai,
- đôi khi đồng tử bị giản nở pupille est dilatée,
- đôi khi nó bị thu hẹp rétrécie.
1° Nước cất Eau distillée.
- 2 gr. được tiêm dưới da một con ếch đã giết chế nó trong vòng 38 phút,
- 60 gr. đã xác định cái chết trong 98 phút;
- 40 gr. cho con thỏ trong 15 phút.
Nó xác định gây ra những chóng mặt vertiges, những run rẩy tremblements, sau đó bại liệt paralysie nằm nhiều trên những dây thần kinh nhạy cảm nerfs sensitifs hơn những dây thần kinh vận động chỉ bị ảnh hưởng một cách rõ rệt.
- một sự suy giãm dần xung mạch pouls,
- sự giãn nở đồng tử dilatation de la pupille,
- hôn mê coma,
- tử vong mort ;
khi khám nghiệm tử thi autopsie,
- một sự tắc nghẽn màng ngoài của tim congestion du péricardevà những màng não méninges,
- sự phát triển của những mạch máu turgescence des vaisseauxcủa não bộ encéphale,
- và thậm chí tràn dịch màng não épanchement sanguinolent.
2° Trích xuất khô Extrait sec.
◦ 2 gr. (số lượng tương ứng với 300 gr. của nấm tươi ), pha loãng trong nước và tiêm vào trong vùng bẹn (vùng háng) inguinale của một con chó 5 kilogr., tạo ra :
- một sự hô hấp thở hỗn hển respiration haletante,
- gia tăng những xung động mạch pulsations artérielles (126 à 146),
- chóng mặt vertigesvà đi loạng choạng titubation ;
◦ một giờ 30 phút sau khi tiêm,
- co thắt đồng tử contraction pupillaire,
- hôn mê coma ;
◦ 3 giờ sau, xung sụt rơi xuống đến 80, tình trạng kéo dài đến giờ thứ 12 ; vào cuối giờ thứ 18, tình trạng hôn mê giãm, và co vật phục hồi sau 48 giờ .
3° Nguyên chất nhựa Principe résineux.
- 12 gr. trích xuất alcoolique của Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria được quản lý dùng cho một con chó chien, ngày thứ 2; chết sau khi trải qua những sự bài tiết ( phân) thường xuyên , không có những rối loạn thần kinh rõ rệt; với khám nghiệm tử thi autopsie, người ta bắt gặp một đờm nhờn của ruột dữ dội nhất.
Vì vậy, 3 nguyên tắc : thứ nhất nó đóng vai trò như nhửng chất gây nghiện chát narcotico-âcres, thứ hai như chất an thần cho tim sédatif du cœur và gây nghiện narcotique, thứ ba như chất kích thích irritant của ống tiêu hóa tube digestif.
● Ở con người .
Ở con người hơi thay đổi :
▪ Với một liều nhỏ,  nấm fausse oronge Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  có những hiệu quả làm say, được mô tả rất rõ bởi Krachinonimkov ; ông báo cáo, và những chi tiết được xác nhận bởi Langsdorf, rằng những cư dân của Kamtschatka cắt Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  thành những mãnh nhỏ mà họ sấy khô để bảo quản nấm ; nó cũng được chế biến với nước ép của Cây sơn trâm vaccinium uliginosum, hoặc bằng cách ngâm với những lá của loài Thượng thùy epilobium, một thức uống mà họ dùng để thay thế rượu đỏ vin.
Khi họ uống loại rượu nầy hoặc ăn nấm khô, nó biểu hiện ở họ một cơn say đặc biệt trong đó những khoa trí tuệ facultés intellectuelles bị tiêu diệt; nó xảy ra :
- những run rẩy tremblements,
- những giật soubresautstrong những gân tendons,
- đôi khi những co giật convulsions.
Một trong những người đồng tính gais, hát hò và nhẩy nhót ; những người khác trái lại, là buồn bã tristes và chán nản abattus. Thông thường, những lực của bắp cơ dường như gia tăng đáng kể; sau đó, những bệnh nhân ngã xuống, giấc ngủ bao lấy họ, làm êm dịu sự phấn khích kỳ lạ nầy, và chẳng bao lâu nó trổi dậy trong trạng thái tự nhiên; thậm chí một số sự buồn bả này kéo dài nầy bởi những sự miễn cưởng liên tiếp.
Nó được quan sát rằng đôi khi xảy ra :
- những ói mữa vomissements,
nhưng say xỉn ivresse không được giãm.
- Nước tiểu của những người cũng say giống như những đặc tính  của nấm; vì vậy người ta thấy những người túng thiếu tìm những người giàu, để mà thu hút sự say sưa nầy ivresse.
▪ Với liều cao, Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  gây ra những sự ngộ độc mà sự thiếu thận trọng xảy ra thường xuyên, đặc biệt ở vùng miền Nam.
Hiệu quả có hại thường mong đợi một thời gian dài sau khi ăn nuốt và chỉ xảy ra từ 10 đến 15 phút sau bữa ăn.
Những người trẻ được đánh đầu tiên. Người ta thường thấy sự tử vong cũng như một gia đình chết liên tiếp.
- Hiệu quả nầy, trước hết mang trên ống tiêu hóa tubedigestif ; buồn nôn nausées, đau bụng tiêu chảy dữ dội coliques atroces, bài tiết phân dồi dào déjections abondantes, nhầy nhụa glaireuses, chẳng bao lâu bị dính máu nhiều sanguinolentes ; sau đó, thứ nữa, sự hưng phấn excitation, say xỉn ivresse, chóng mặt vertiges, run rẩy tremblements, loạng choạng titubation, thở hổn hển respiration haletante, những chuyển động tim không đều coeur, đôi khi bị ngất syncope, giản nở hoặc co rút đồng tử pupille, rối loạn thị giác trouble de la vue, mất trí thông minh perte de l'intelligence, mê sảng đồng tính délire gai hoặc khùng điên maniaque, xanh xao pâleur, chảy mồ hôi lạnh sueur froide,  xung mạch pouls chậm đáng kể, hôn mê coma và từ vong mort. Những xoang sinus và những động mạch artères cơ bản bị xáo trộn bởi máu sang.
Kinh nghiệm dân gian :
▪ Trong Italie, sau khi đun sôi và đổ bỏ nước dư thừa, nấm được giữ lại trong nước muối trước khi tiêu thụ (Festi, 1985).
▪ Trong Bắc Mỹ Amérique du Nord, lớp biểu bì màu đỏ được gở bỏ và phần còn lại được sấy khô và sau đó đuợc hút thuốc (Ott 1978).
Những quá trình sau nầy sẽ loại bỏ hoặc phá hủy phần lớn của những chất hoạt động hòa tan trong nước.
Chất muscimol và acide iboténiquecó lẽ là nguyên chất hoạt động sinh học biologiquementactifs của những loài quan tâm, nhưng những thành phần hoạt động khác bị nghi ngờ.
Bất kỳ những nỗ lực khử nước dẫn đến việc một khử carbon décarboxilationtạo ra một định lượng của chất muscimol, do đó gợi ý cho một bữa ăn của những nấm nấu chín, hoặc thậm chí sau một tiêu hóa dạ dầy digestion gastrique, sẽ chỉ chứa chất sau nầy và sẽ là yếu tố trách nhiệm của những triệu chứng chánh.
▪ Hút ẩm và nấu ăn làm giãm mức độ độc tính của năng lượng độc hại toxiquecủa Nấm tán amanite.
Nấu ăn kéo dài trong nước muối hoặc giấm làm cho nấm độc champignons vénéneuxtrở nên vô hại inoffensifs nhưng cũng là một loại thức ăn không có mùi vị insipidesvà khó tiêu indigestes.
Hiệu quả xấu và rủi ro : 
● Hội chứng ngộ độc :
Đặc tính của sự ngộ độc và triệu chứng hội chứng ngộ độc do Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  và Amanita pantherina đã được gọi là «myco-atropinique», những triệu chứng tương tự như gây ra bởi những cây có một số chất có tác dụng dược lý như atropine atropiniques như là Datura stramonium, Atropa belladone và Hyosciamus niger. những những alcaloïdes nhiệt đới không hiện diện.
Thời gian triệu chứng chrono-symptomatologielà thay đổi giữa những đối tượng, tùy thuộc vào chức năng của những nghi thức (Waser 1967, Festi 1985) và những ngộ độc thí nghiệm intoxications expérimentales và tình cờ accidentelles.
Trong những nghi thức, người bị ngộ độc (ví dụ pháp sư ) đang tìm một trạng thái tình thần đặc biệt trong đó tính tự kỹ ám thị autosuggestionlà quan trọng. Một «sự mê sảng délire» không hoàn toàn được tạo ra, nhưng những những chất hóa học đã cải thiện trí tuệ (Levi-Strauss, 1970).
Bối cảnh văn hóa xã hội và môi trường kết hợp với trạng thái tâm lý psychologique và sinh lý physiologique của người tham gia là thích hợp (Rosenbohm, 1995). Hội chứng Pantherina-muscaria giống như chất atropine và trong số lượng và mức độ nghiêm trọng gravité của những trường hợp ngộ độc empoisonnement gây ra tử vong là rất hiếm.
Trong hầu hết những trường hợp, sự phục hồi hoàn tất sau 24 giờ  không có di chứng rõ rệt (Bosman và al. 1965, Gerault và Girre 1977, Hatfield 1979, Lampe 1979, Bornet 1980, Gelfand và Harris 1982, Pegler và Watling 1982, Iancovitz 1983, Hanrahan & Gordon 1984, Benjamin 1992, Denoyer 1992).
▪ Trong hầu hết những trường hợp, một chén nấm xào đủ để những hiệu quả hướng tâm thần psychotropes. Những triệu chứng bắt đầu từ 30 min đến 2 giờ sau khi nuốt uống.
Trạng thái co giật confusion, chóng mặt vertiges và mệt mõi fatigue, gây mê thị giác anesthésie visuelle và thính giác auditive (quá mẫn cảm hypersensibilité), biến dạng không gian distorsion de l'espace và không nhận thức được thời gian conscience du temps; của những thể hiện sự cũng cố bởi sự tiêu thụ một số thuốc tâm lý-an thần psycho-sédatifs.
Những thái độ hung hăng đã không được báo cáo.
▪ Khô miệng sécheresse de la bouche và giãn đồng tử mydriase (giãn nở đồng tử dilatation des pupilles) đã được đề cập đến.
Những ảo giác hallucinations, nhận thức màu sắc sống động perception des couleurs vives và một cảm giác về thời gian bất động temps immobile đã được tranh cải.
▪ Một thời gian buồn ngủ sau 2 giờ sau đó, với những giấc mơ sống động. Một giấc ngủ sâu sommeil profond chấm dứt ngộ độc empoisonnement thường kéo dài khoảng 8 giờ (Benjamin 1992, Davis và Williams 1999).
▪ Những rối loạn thiêu hóa dạ dày ruột gastro-intestinauxtiếp theo sau với nôn mữa vomissements không được ghi nhận và không phải là đặc điểm của hội chứng syndrome (Festi & Bianchi, 1992). Không có thiệt hại nào cho những cơ quan đã được ghi nhận, mặc dù những thành phần hoạt động có thể gây ra những tổn thương não bộ cérébrales trong cơ thể sinh vật sống in vivo.
▪ Một sự tiêu thụ thường xuyên nấm có thể sẽ có hại, mặc dù hầu hết của những trường hợp ngộ độc ở người intoxication humaine không có bất kỳ báo cáo nào.
Những tổn thương não cérébrales ở những loài gặm nhấm được chữa trị với acide iboténique và muscimol có thể xảy ra (Lescaudron, Bitran & Stein, 1992).
● Chữa trị .
Sự chữa trị thích hợp chủ yếu là triệu chứng symptomatique.
▪ Trước hết, là loại bỏ những chất độc hại toxiques của đường tiêu hóa dạ dầy ruột gastro-intestinal bằng cách :
- làm ói mữa vomissant (ví dụ như dùng uống sirop d'ipéca; Benjamin 1992),
- rữa dạ dày lavant l'estomac,
- hoặc bằng cách dùng than hoạt tính charbon activé và thanh lọc hoàn toàn purgeant,
tốt nhất là liên lạc với đơn vị cấp cứu chăm sóc khẩn cấp cấp cứu (M. Denoyer, pers. comm.).
Những hành động của những nguyên chất hoạt động, acide iboténiquemuscimol, phải được so sánh với hoạt chất atropine; do đó, sự sử dụng của thuốc sau là chống chỉ định mạnh.
Chất physostigmine (esérine), là một chất ức chế của phân hóa tố cholinestérase, đã được đề nghị bởi vì nó trung hòa những hiệu quả của scự ngộ độc intoxication bởi chất atropine và những thuốc chống động kinh antimuscariniques liên quan.
▪ Liều lượng tiêm vào trong tĩnh mạch intraveineusecho người trưởng thành và những thanh thiếu niên là từ 1 đến 2 mg lập lại khi cần thiết (Taylor 1992), thuốc cũng được sử dụng với sự thành công trong những trường hợp cho thú y vétérinaires(Ridgway 1978).
▪ Việc sử dụng thuốc an thần sédatifs như là thuốc diazépam hoặc thuốc clonazépam, bởi đường uống hoặc tiêm vào trong tĩnh mạch intraveineuse, trong trường hợp co giật convulsions, cũng như thuốc phénobarbital đã được đề xuất (Lambert và Larcan 1989, Garnier, Azoyan và Baud 1990, Benjamin 1992, Denoyer 1992).
Tuy nhiên, người ta nghi ngờ rằng chất diazépamtăng cường hành động của chất muscimol(Hanrahan & Gordon 1984, Benjamin 1992).
Trái với một số tuyên bố, nấu ăn không làm giãm độc tính toxicité một cách đáng chú ý, điều nầy chứng minh rằng những thành phần hoạt động không nhạy cảm với nhiệt độ.
▪ Những tòa án Ý italiens cũng đã cấm sử dụng thuốc psilocybine, psilocine và Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria («Stampa alternativa»).
Tuy nhiên, trong Châu Âu Europe, sự quan tâm đến thuốc nầy ít quan trọng hơn trong Bắc Mỹ Amérique du Nord, nơi đây luật pháp cấm sử dụng Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria,  ngay cả ở Châu Âu vẫn đang gia tăng.
▪ Trong một số nước nhất định, việc sở hữu nấm gây ảo giác hallucinogènes không phải là bất hợp pháp, trái lại với những chất hóa học và dẫn xuất của chúng được làm tinh khiết.
Triệu chứng.
▪ Sự ngộ độc xảy ra theo 2 giai đoạn :
◦ Trong giai đoạn đầu, người ta quan sát những rối loạn của hành vi tâm tánh, của sự hưng phấn euphorie hoặc sự tức giận colère, sự kích động agitation, sự mất phương hướng désorientation, mê sảng délire, những ảo giác hallucinations.
◦ Thời gian ngủ sâu : ở trạng thái đầu tiên của sự hưng phấn excitation sau một thời gian thất thần torpeur thậm chí hôn mê coma trong những trường hợp nghiêm trọng. Nạn nhân đôi khi cũng có những triệu chứng tiêu hóa tối thiểu digestifs mineurs như là buồn nôn nausées, ói mữa vomissementsvà tiêu chảy diarrhée.
Chjữa lành bệnh trong từ 12 đến 24 giờ.
Ứng dụng :
▪ Sử dụng phổ biến.
Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria  đặc biệt được sử dụng sớm trong Châu Âu như thuốc trừ sâu insecticide được pha loãng trong sữa, do đó nó có tên địa phương «giết ruồi».
Chất muscarine trích xuất từ nấm nầy cho phép đặc tính hóa một thụ thể tiếp hợp thần kinh nhạy cảm synaptique sensible với acétylcholine, được gọi là thụ thể muscarinique.
Nghi thức sử dụng .
Những linh mục Gaulois druides và những nhà phù thủy sorcierscũng đã sử dụng với những mục đích pháp sự như peyotl ở Mexique (cf. Castañeda). Tiếp theo sau một sự bào chế đặc biệt, nó được cho là đưa những người thực hành vào những thực tại khác của nhận thức và can thiệp vào thế giới linh hồn, do đặc tính gây ảo giác hallucinogènecủa nó.
Đặc tính hướng tâm thần psychotrope được quy cho chất muscimole cũng như chất muscazone ( có nguồn gốc của acide iboténique khi nấm được sấy khô).
Nguyên chất nầy được loại bỏ bởi nước tiểu urinescó thể được tái hấp thu như một thức uống gây say.

Nguyễn thanh Vân

Điểm 4.6/5 dựa vào 87 đánh giá